Hệ thống tăng thẩm thấu mỹ phẩm đường thoa qua da (Phần 2) Tháng Mười 13, 2017RD Ảnh hưởng của surfactan và nồng độ của surfactan đối với các hệ thẩm thấu Chất diện hoạt cần thiết cho quá trình hình thành transfersome thông thường là sodium deoxychelate, span 80, Tween. El Mghraby đã nghiên cứu quá trình hình thành và thấm qua da của các transfersome ở các nồng độ khác nhau và kết luận rằng: transfersome cải thiện rõ rệt hiệu quả phân bố estradiol qua da so với hệ dung môi thân nước. Mức độ cải thiện gia tăng theo thứ tự 18-, 16-, 15-, 13- lần cho transfersome đối với chất diện hoạt là sodium cholate, span 80, Tween 80 và oleic acid. Nồng độ chất diện hoạt quá cao hoặc quá thấp đều làm giảm hiệu quả thấm của transfersome. Nguyên nhân ở nồng độ cao, chất diện hoạt giảm khả năng hình thành micelle. Dipotassium glycyrrhizinate (KG) có khả năng nhũ hóa và tính tan tốt nên được sử dụng nhiều trong công nghệ bào chế mỹ phẩm. Trotta đánh giá khả năng hình thành cấu trúc túi đàn hồi của KG với lecithin (PC) và hydrogenated lecithin bằng cách so sánh tính thấm của KG trong hệ chứa túi đàn hồi với hệ dung dịch thân nước trên da lợn. Kết quả cho thấy, hệ đàn hồi PC và HPC gia tăng tính thấm của KG vào da lợn trong khoảng từ 60 ± 8 mg/cm2 đến 71 ± 10 mg/cm2 trong khi dung dịch KG chỉ đạt tính thấm 12 ± 3 mg/cm2. Không có sự khác biệt đáng kể giữa cấu trúc túi vận chuyển trong hệ chứa PC so với HPC. Ngoài ra, Trotta còn báo cáo tác động của cấu trúc túi KG đối với tính thấm của hoạt chất methotrexat (MTX) ở da lợn bằng việc đo hàm lượng MTX tích lũy trên da lợn sau 24 giờ cho thấy: MTX dạng túi đàn hồi có tính thấm tốt hơn 3 lần so với dung dịch thân nước MTX và MTX phân bố dưới dạng liposome. Vì vậy, Trotte kết luận chung rằng KG hoạt động như một nhân tố kích hoạt hình thành các cấu trúc túi đàn hồi trong các hệ phân bố thuốc qua da. Yếu tố nào là quan trọng nhất trong cơ chế hình thành transfersome, điều này còn phụ thuộc vào thành phần công thức. Ví dụ: cholate có hiệu quả tốt trong việc phân bố các thành phần có kích thước phân tử lớn. KG có độ bền hóa học cao, tính tan và khả năng nhũ hóa và hoạt tính chống viêm tốt. Vì vậy, các hệ cấu trúc đàn hồi có chứa KG mở ra một hướng phát triển mới đối với các sản phẩm trị liệu có kiểm soát qua da. Cấu trúc túi đàn hồi non-phospholipid Bên cạnh cấu trúc túi đàn hồi phospholipid, Van den Bergh phát triển hệ cấu trúc túi lớp kép chứa chất diện hoạt L595 (sucrose laurate ester) và chất hình thành micelle PEG-8-L800 (octaoxyethylene laurate ester). L595 chứa 100% sucrose laurate ester (30% monoester, 40% diester, và 30% triester). Hệ chất diện hoạt chứa L595, PEG-8-L và sulfosuccinate có vai trò ổn định với tỷ lệ mol 50:50:5. Khả năng vận chuyển thuốc chịu ảnh hưởng bởi tính linh động của cấu trúc túi. Túi “cứng” khi thành phần tỉ lệ L595/PEG-8-L (100:0). Khi tỉ lệ PEG-8-L gia tăng, tính linh động của hệ túi gia tăng tương ứng. Khả năng thấm của hệ túi đàn hồi qua da phụ thuộc vào các yếu tố như: pH, hiệu xuất hình thành micele, nồng độ chất diện hoạt và thời gian thoa thuốc,..pH tối ưu phụ thuộc vào thành phần của hệ. Ví dụ, pH tối ưu cho pergolide là 5, đem lại hiệu quả thấm thuốc tốt nhất cho dạng thuốc này. Ở pH=7, tính thấm giảm đi 5 lần. Đối với rotigotine, pH tối ưu ở mức 9 do ở pH=5, khả năng hình thành michele của hệ kém bền. Ethosome Ethosome là hệ vận chuyển qua da có cấu trúc phospholipid liposome chứa hàm lượng cao ethanol. Nhiều giả thuyết cho rằng nồng độ ethanol cao làm giảm khả năng hình thành liposome của hệ với các tỉ lệ như sau: 7-10% đối với tranfersome, 14% đối với micelle, 16% đối với Naptide II, 30-50% đối với proiosome. Khác với các dạng thuốc liposome thông thường, ethosome thường được ứng dụng đối với các bệnh điều trị ngoài da. Khi nồng độ ethanol trong hệ từ 20-45%, kích thước túi gia tăng khi nồng độ ethanol giảm. Ngoài ra, ethanol làm tăng điện tích âm của túi vận chuyển, cải thiện độ bền của hệ. Các thành phần hoạt chất thân nước hoặc thân dầu được “bao gói” trong hệ ethosome. Hiệu quả “đóng gói” các hoạt chất kỵ nước cao hơn so với các hoạt chất thân nước. Ví dụ: hiệu suất “đóng gói” minoxidil, testosterone, trihexylphenidyl (THP), và bacitracin lần lượt là 83% 6%, 90% 3.5%, 75% 0.8% và 77.4% , 2.9%. Các thí nghiệm được tiến hành và đo lường dựa trên cơ chế đo độ phát huỳnh quang của chất mồi (cường độ huỳnh quang phụ thuộc vào vị trí của chất mồi ở những độ sâu khác nhau trong da) trên da chuột. Hoạt chất thân nước calcein thấm qua da ở độ sâu 160 mm, 80 mm và 60 mm lần lượt ở các hệ ethosome, hydroethanolic (30% ethanol trong nước), và liposome. Hoạt chất thân dầu đỏ rhodamine thấm qua da chuột đến 140 mm ở cả hệ ethosome và hydroethanolic.