Sản phẩm vệ sinh da dạng thỏi (Phần 1) Tháng Mười 4, 2017RD Lịch sử Xà phòng dạng thỏi được người thời tiền sử phát hiện dựa vào quan sát hiện tượng một dạng sáp hình thành trong ngọn lửa trại xung quanh xác chết động vật. Dạng sáp ấy chính là xà phòng. KOH từ tro động vật đã thủy phân triglycerid để tạo ra muối kali của acid béo và glycerol. Các ghi nhận lịch sử cho thấy xà phòng đã được sử dụng bởi người Sumer 2500 năm trước công nguyên. Khi nền văn minh Châu Âu thịnh vượng vào thế kỷ thứ 9, các xưởng sản xuất xà phòng ra đời. Vào thời đó, xà phòng được xem là một vật dụng xa xỉ, chỉ có người giàu mới có khả năng chi trả. Nhưng từ thế kỷ thứ 19, xà phòng được sản xuất ở quy mô công nghiệp, giá thành trở nên rẻ hơn và xuất hiện nhiều thương hiệu riêng. Các sản phẩm tẩy rửa tổng hợp được sản xuất vào thế kỷ 20, chủ yếu là sản phẩm giặt vải. Trong khi có rất nhiều thành phần tẩy rửa, nhưng lại có rất ít thành phần có thể ứng dụng để sản xuất xà phòng. Đặc điểm khó thỏa mãn nhất của xà phòng thỏi là khả năng duy trì thể rắn khi tiếp xúc với các tác nhân ẩm ướt nhưng vẫn không bị vỡ. Công thức cấu tạo của xà phòng dạng thỏi Thành phần chủ yếu của xà phòng dạng thỏi chính là loại chất diện hoạt có thể duy trì dạng thể rắn ở nhiệt độ phòng nhưng dễ tan trong môi trường nước. Hai thành phần chất diện hoạt được ứng dụng chủ yếu ở quy mô công nghiệp là alky carboxylate và acyl isethionate. Chúng giống nhau ở tính chất vật lý, khác nhau ở cách thức tương tác với da. Quá trình bào chế liên tục Quy trình bắt đầu với giai đoạn tổng hợp chất diện hoạt alky carboxylate. Các thành phần phụ gia được bổ sung qua nhiều bước để đạt được thành phẩm cuối cùng. Sau giai đoạn trộn và nghiền đến khi hỗn hợp đạt đến thể chất đồng nhất, hỗn hợp được định hình bằng khuôn. Yêu cầu kỹ thuật của quy trình bào chế liên tục phụ thuộc vào nguyên vật liệu nhưng đây là hình thức bào chế nhanh chóng và kinh tế nhất. Bào chế hàng loạt theo lô Nguyên lý của phương pháp làm nóng chảy vật liệu là tạo ra chất diện hoạt và bổ sung, gia giảm các thành phần phụ gia vào một hỗn hợp nóng chảy. Hỗn hợp này được định hình nhờ phôi. Phương pháp này tốn nhiều chi phí hơn so với phương pháp sản xuất liên tục nhưng lại có phạm vi ứng dụng lớn và dễ dàng bào chế ở quy mô công nghiệp cũng như tạo ra các dòng xà phòng cao cấp. Xà phòng dạng thỏi Các thành phần chủ yếu của xà phòng thỏi quyết định đặc tính và hình thức sử dụng như: độ tạo bọt, mùi thơm, độ tương thích với da, khả năng tái định hình sau khi tiếp xúc với nước. Hầu hết xà phòng dạng thỏi thuộc vào 2 nhóm: nhóm xà phòng cơ bản và nhóm xà phòng béo. Xà phòng cơ bản là hỗn hợp của muối natri của acid béo chuỗi trung bình. Nhóm xà phòng béo có thành phần tương tự nhưng được bổ sung thêm các acid béo. Ngoài ra còn có các dạng xà phòng thỏi đặc biệt như: xà phòng trong, xà phòng diệt khuẩn, xà phòng khử mùi, xà phòng chứa các vitamin, chiết xuất nha đam, cúc la mã,… Xà phòng cơ bản Xà phòng cơ bản có thành phần chính là muối natri của acid béo. Vì là muối của một acid yếu, xà phòng tạo môi trường kiềm với pH trong khoảng 9-11 khi hòa tan trong nước. pH này không đủ khả năng gây kích ứng da nhưng lại ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý của lớp sừng, vốn có pH tự nhiên trong khoảng 5.5. Acid béo sử dụng trong loại xà phòng này thường là các acid béo chiết xuất từ động vật hoặc thực vật. Độ dài chuỗi acid béo trong khoảng C12 (từ dầu dừa) đến C18 (từ mỡ lợn). Xà phòng chuỗi C16-18 khó tan trong nước nhưng dễ dàng duy trì thể rắn ở nhiệt độ phòng. Xà phòng béo Bước bào chế xà phòng được điều chỉnh sao cho sản phẩm cuối cùng có hàm lượng acid béo tự do cao. Vì vậy, da được dưỡng ẩm và giảm nguy cơ kích ứng. Hầu hết các loại xà phòng cao cấp đều thuộc nhóm xà phòng béo.