Kem dưỡng ẩm cho tay và chân (Phần 3) Tháng Mười 4, 2017RD Chăm sóc chân Những bệnh nhân đái tháo đường phụ thuộc insulin có thể ức chế những biểu hiện của da do những thay đổi về trạng thái chuyển hóa và/ hoặc sự thoái hóa thần kinh và tuần hoàn. Việc kiểm soát da khô ở những người này rất quan trọng để duy trì tính toàn vẹn hàng rào, giúp ngăn ngừa nhiễm nấm và nhiễm khuẩn. Đặc biệt, da ở gót chân có thể rất khô và có vảy, dễ hình thành các vết nứt nẻ dẫn đến những tổn thương khó lành. Hình 3. Sự cải thiện ở da chân người bị tiểu đường sau 6 tuần sử dụng mỗi ngày kem chứa 10% ure và 5% sodium lactate. Hình ảnh trước điều trị (trái) của 2 đối tượng khác nhau (trên và dưới) và hình ảnh đáp ứng của họ ở tuần thứ 6 (phải) Một nghiên cứu có kiểm soát sử dụng kem chứa 10% ure, 5% sodium lactate và glycerin điều trị mỗi ngày cho bàn chân trong 6 tuần đã được tiến hành ở 31 bệnh nhân tiểu đường type I và type II. Lựa chọn dân số bệnh này để nghiên cứu do họ có tình trạng chân bị tổn thương cao. Gót chân của những đối tượng này được đánh giá về độ thô ráp, vảy và nứt nẻ, và kích ứng cũng đã được ghi nhận. Bên cạnh, sự giảm đáng kể thô ráp, vảy và nứt nẻ đã được quan sát thấy. Mặc dù tình trạng da bị tổn thương nghiêm trọng ở mức cơ bản nhưng chỉ có một bệnh nhân báo cáo có kích ứng nhẹ tại chỗ. Một nghiên cứu đa trung tâm thứ 2 ở 604 bệnh nhân có bàn chân khô hoặc khô nghiêm trọng, nứt nẻ và bệnh khô da (258, 42,7%), tiểu đường (179, 29,6%) hoặc viêm da dị ứng (113, 18,7%) đã được tiến hành ở Đức và Úc. Các bệnh nhân đã sử dụng kem chân chứa 10% ure, 5% sodium lactate và glycerin ít nhất 2 lần/ ngày trong 2 tuần. Trong khi 319 bệnh nhân đã sử dụng các sản phẩm điều trị đặc biệt cho bàn chân để chăm sóc chân trước đó thì chỉ 20 bệnh nhân đã sử dụng các sản phẩm tại chỗ khác ngoài kem chân trong giai đoạn nghiên cứu. Da chân được phân loại lâm sàng đối với khô da, bong vảy và nứt nẻ ở mức cơ bản và sau 2 tuần điều trị ở 5 thang điểm (không có, nhẹ, trung bình, nặng và rất nặng). Bảng 4. Các điểm phân loại lâm sàng trước và sau 2 tuần điều trị. Phần trăm bệnh nhân không có triệu chứng/ nhẹ và nặng/ rất nặng (100%=604 bệnh nhân) Bảng 4 ghi nhận sự cải thiện ở tình trạng da sau 2 tuần sử dụng kem chân, cho thấy giảm đáng kể và rõ rệt phần trăm bệnh nhân có các triệu trứng nặng hoặc rất nặng và cải thiện toàn bộ ở 95% bệnh nhân. Trong dân số bệnh nhân này, các bác sĩ da liễu điều tra nghiên cứu đánh giá khả năng dung nạp là rất tốt hoặc tốt ở 96,7% bệnh nhân, đề nghị tiếp tục sử dụng sản phẩm. Những dữ liệu này và nhiều nghiên cứu khác đã được công bố hỗ trợ đánh giá điều trị và độ an toàn của ure khi dùng tại chỗ để điều trị các tình trạng da khô khác nhau. DƯỠNG ẨM THẾ HỆ KẾ TIẾP TRONG TƯƠNG LAI Cân bằng nước nội môi của lớp biểu bì quan trọng đối với sự biểu hiện và các đặc tính vật lý của da cũng như sự cân bằng nước của cơ thể. Cân bằng độ ẩm da phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm độ ẩm bên ngoài, sự hấp thu nước vào biểu bì, chất lượng hàng rào da và các chất liên kết nước nội sinh. Sự sinh tổng hợp và phân hủy các thành phần của da cũng bị ảnh hưởng bởi cân bằng nước, tác động đến trạng thái ẩm của các lớp biểu bì. Trong thời gian gần đây, các aquaporin (AQP), các yếu tố điều hòa hydrat hóa quan trọng trong lớp biểu bì dưới đã được mô tả. Chỉ định đầu tiên của AQP trong việc điều hòa sự hydrat hóa mô biết đến từ các cuộc điều tra của các hệ thống cơ quan khác, đặc biệt ở thận. Từ khi mới phát hiện, các gen AQP đã được nhân bản vô tính và cho đến nay 13 gen khác nhau (AQP1-13) đã được xác định. Bằng chứng đầu tiên cho thấy sự phù hợp của AQP trên da đến từ Ma và cộng sự, người đã tạo ra chuột gây mê thiếu AQP3, cho thấy sự hydrat hóa lớp sừng giảm. Các nghiên cứu đã khẳng định tầm quan trọng của những phát hiện này ở da khô trên người. Các đối tượng có hàng rào bảo vệ bị hư hại bởi điều trị dạng hoạt động bề mặt kéo dài 1 tuần dẫn đến da khô, bị tổn thương cho thấy sự giảm đáng kể số lượng AQP3 (p=0.04). Các AQP3 được định lượng bằng kỹ thuật phân tích Western blot (một kỹ thuật phân tích được sử dụng rộng rãi nhằm phát hiện các protein chuyên biệt trên các mẫu mô hay dịch chiết xuất mô) và giảm 43% ở các mẫu da khô đã được quan sát thấy. Hơn nữa, ở những tình trạng da có liên quan đến khô da, giảm AQP3 cũng đã được quan sát thấy. Đặc biệt, sự giảm lượng AQP3 do tuổi tác cũng như những tình trạng da có liên quan đến tiếp xúc ánh sáng mặt trời mãn tính đã được báo cáo. Nước và các chất dưỡng ẩm glycerol và ure được phát hiện là vận chuyển qua da thông qua AQP trên da, cung cấp độ ẩm từ bên trong lớp biểu bì. Tìm hiểu thêm những kiến thức về hoạt động và sự điều hòa của AQP3 giúp tìm ra những nhóm chất mới có thể điều chỉnh biểu hiện của các kênh nước này. Các dẫn xuất glycerol tăng cường Hình 4.Định vị bằng phương pháp IHC (Immunohistochemical) protein AQP3 ở các đơn lớp tế bào keratin nhuộm với kháng thể AQP3. Kiểm soát nền (trái), kiểm soát không được điều trị (giữa), điều trị với 3% dẫn xuất glycerol tăng cường trong 48 giờ (phải). Trong các nghiên cứu in vitro trên các tế bào sừng của người đã chứng minh sự gia tăng đáng kể mức AQP3 bằng dẫn xuất glycerol đặc biệt tăng cường (EGD), được thiết kế và tổng hợp để tạo ra các thuộc tính cấu trúc và thẩm thấu. Hình 4 mô tả lượng AQP3 được điều trị EGD ở các tế bào sừng ở người sau 48 giờ ủ. Các nghiên cứu bổ sung đo lượng AQP3 mRNA ở các tế bào sừng ở người đã khẳng định những phát hiện này. Trái ngược với điều trị glycerol, EGD gia tăng biểu hiện mRNA tùy theo sự kiểm soát. Hơn nữa, để đánh giá hiệu quả của chất mới này, những nghiên cứu in vivo có kiểm soát giả dược đã được tiến hành. Hình 5 chứng minh các kết quả của một nghiên cứu trên 23 đối tượng có hàng rào biểu bì bị phá hủy bằng điều trị dạng chất hoạt động bề mặt, dẫn đến da khô và tổn thương. Sự phục hồi hàng rào biểu bì được đánh giá hàng tuần bằng cách đo TEWL ở vùng da điều trị. Các lotion thử nghiệm được sử dụng tại chỗ gồm có tá dược, tá dược với 6,5% glycerol và tá dược với 6,5% glycerol và 5% EGD. Sau khi phá hủy hàng rào da khoảng 1 tuần, điều trị tá dược không hiệu quả để khôi phục lại hàng rào ở mức cơ bản, cho thấy lượng mất ẩm cao trên da. Điều trị với glycerol chứa tá dược cho thấy giảm TEWL so với tá dược. Tuy nhiên, sự củng cố và khôi phục lại đáng kể hàng rào đã được quan sát thấy với công thức chứa glycerol-EGD so với cả tá dược và tá dược với glycerol. Hình 5. Nghiên cứu in vivo ở 23 tình nguyện viên có da khô. Đo lường mất nước xuyên biểu bì (TEWL) sau điều trị với tá dược, tá dược với 6,5% glycerol và tá dược với 5% dẫn xuất glycerol tăng cường (EGD). KẾT LUẬN Các chất dưỡng ẩm đã được sử dụng khoảng hàng ngàn năm để cải thiện tình trạng da bị tổn thương. Sự ra đời của các nhũ tương ổn định và những tiến bộ tiếp theo trong công nghệ nhũ tương đã đem lại cải tiến hiệu quả cho các sản phẩm dưỡng ẩm. Hơn 100 năm quá trình sàng lọc, phát hiện các thành phần mới và sự hiểu biết ngày càng tăng về NMF và cơ chế sinh học giúp điều chỉnh cân bằng độ ẩm da đã góp phần hướng tới các sản phẩm có độ ổn định cao, có tính thẩm mỹ và hiệu quả. Trái ngược với các thành phần phát huy tác dụng duy nhất ở bề mặt da, phát hiện gần đây và hiểu biết về chức năng của AQP, và đánh giá mới về các cơ chế cơ bản của cân bằng độ ẩm nội môi của da đem lại những cơ hội mới để tạo ra các chất có hoạt tính và các công thức sản phẩm tốt hơn có thể giúp điều chỉnh độ ẩm từ sâu bên trong da.