Acid glycolic Tháng Một 24, 2018Tháng Một 24, 2018RD Lịch sử Trong một nghiên cứu trên hơn 60 chất được lựa chọn cho các đặc tính có thể chống sự hình thành keratin, Van Scott và Yu nhận thấy rằng chất hiệu quả nhất thuộc về nhóm các acid alpha-hydroxy. Ví dụ, sử dụng 3 lần/ ngày acid citric, glycolic, lactic, malic, pyruvic và glucuronic đem lại các kết quả tuyệt vời ở tất cả các dạng bệnh vẩy cá, trừ dày sừng ly giải thượng bì. Các chất này đã được sử dụng ở nồng độ 5% trong thuốc mỡ thân nước. Sự thuyên giảm được duy trì khi vẫn còn tiếp tục điều trị. Việc sử dụng những chất này đã được áp dụng rộng cho những tình trạng dày sừng khác. Acid glycolic đã trở nên phổ biến vào cuối những năm 1980 như là một chất thay da hóa học. Đặc tính Acid glycolic đã được chứng minh có hoạt tính kích thích nguyên bào sợi và lớp mầm, tiêu sừng. Những nghiên cứu được báo cáo đã chứng minh hiệu quả kháng viêm của nó và hoạt tính chống oxy hóa. Nó hoạt động bằng cách làm mỏng lớp sừng, thúc đẩy bong tróc biểu bì, phân tán melanin lớp nền, acid hyaluronic trung bì và biểu bì, và sự biểu hiện gen collagen gia tăng thông qua sự bài tiết IL-6. Công thức Sự hấp thu của acid glycolic ở da người phụ thuộc vào pH, nồng độ và thời gian. Dung dịch acid glycolic 70% thường được sử dụng như chất thay da hóa học bề mặt, pH của những dung dịch này nằm trong khoảng 0,08 đến 2,75. Dung dich thay da với pH dưới 2 đã được chứng minh có khả năng gây đóng vảy và hoại tử, điều này không thấy ở những dung dịch trung tính với pH trên 2. Các acid nồng độ cao (70%) tạo ra phá hủy mô cao hơn nồng độ thấp (50%). Chỉ định Acid glycolic đã được công nhận là một phương pháp điều trị hỗ trợ quan trọng trong một loạt các tình trạng hư hại da do ánh sáng, mụn, rosacea, rối loạn tăng sắc tố, dày sừng quang hóa, các nếp nhăn mịn, đốm lão hóa, nám và dày sừng tiết bã. Hơn nữa, nó có thể giảm sự phát triển khối u ở da do UV gây ra và đã được đề xuất là một phương pháp điều trị chống lại những tình trạng bong tróc da như bệnh vẩy cá, khô da và bệnh vẩy nến. Ở phụ nữ sau mãn kinh, kem chứa 0,01% estradiol và 15% acid glycolic được sử dụng một bên mặt trong khoảng 6 tháng đem lại sự cải thiện đáng kể các dấu hiệu ở da lão hóa. Các chất thay da hóa học acid glycolic là một điều trị hiệu quả cho tất cả các loại mụn, giúp cải thiện nhanh chóng và phục hồi làn da bình thường. Ở những bệnh nhân này, acid glycolic được sử dụng phổ biến hơn dung dịch của Jessner, được xem có hiệu quả điều trị ngang nhau nhưng sự bong tróc giảm ở acid glycolic. Mặc dù điều trị sẹo lõm do mụn rất khó khăn và thường không đạt yêu cầu nhưng một số nghiên cứu lâm sàng đã được thực hiên để nghiên cứu hiệu quả của acid glycolic trong điều trị mụn trứng cá thông thường. Hiện nay, nó được sử dụng rộng rãi để điều trị nhiều khiếm khuyết của biểu bì và trung bì nhú với nhiều nồng độ khác nhau từ 20-70%, tùy thuộc vào tình trạng được điều trị. Chống chỉ định Chất thay da acid glycolic được chống chỉ định trong viêm da tiếp xúc, mang thai và những bệnh nhân quá mẫn cảm với glycolat. Hơn nữa, chúng có thể gia tăng sự nhạy cảm của da với ánh sáng cực tím. Những bất lợi Các biến chứng của acid glycolic như tăng sắc tố và nhiễm trùng rất hiếm. Chất thay da hóa học với acid glycolic có thể gây ra triệu chứng kích ứng, đặc trưng bởi đau nhức, nóng, ngứa. Một chất có khả năng chống lại kích ứng về mặt cảm giác là stronti nitrate ở nồng độ 20% được sử dụng tại chỗ với 70% acid glycolic, có khả năng ức chế cảm giác kích ứng gây ra do chất hóa học. Hơn nữa, một số nghiên cứu đã chứng minh rằng acid glycolic có thể gây ra sự gia tăng mức độ tổn thương da kiểu phụ thuộc thời gian và liều lượng. Liều thấp (1-3mg/cm2) acid glycolic gây ra ban đỏ và vảy nhiều nhất, trong khi liều cao hơn (5-7mg/cm2) acid glycolic gây đỏ, phù nề và viêm loét hoại tử. Acid glycolic cũng gia tăng độ dày của lớp biểu bì, giảm sự tổ chức lại lớp sừng và cuối cùng phá hủy một số phần của lớp biểu bì ở 7mg/cm2. UVB gây ra đỏ và phù nề, cũng làm giảm tính toàn vẹn của lớp sừng. Acid glycolic tăng cường sự phá hủy da gây ra bởi UVB mà không kèm theo sự sản xuất PGE hoặc sự biểu hiện của protein COX-2. Do đó nên thận trọng khi sử dụng kéo dài acid glycolic hoặc ở lượng quá lớn. Hơn nữa, những người có da nhạy cảm ánh sáng, đặc biệt là tiếp xúc với ánh nắng cần phải cẩn thận. Tuy nhiên, sự nhạy cảm ánh sáng này có thể được đảo ngược trong vòng 1 tuần sau khi chấm dứt điều trị. Những nghiên cứu điều tra trong phòng thí nghiệm hiếm khi cho thấy sự thiếu hụt complex I khi phosphoryl hóa oxy hóa ty lạp thể của bệnh nhân, những người đã có dấu hiệu tái phát đặc trưng bởi buồn nôn, ói mửa và các dấu hiệu của sự mất nước bắt buộc phải nhập viện. Ở những bệnh nhân này, acid glycolic được phát hiện trong máu và họ đã được chẩn đoán là có nhiễm độc ethylen glycol. Các tác dụng phụ Các tác dụng phụ như tăng sắc tố tạm thời hoặc kích ứng thường không đáng kể. Kết quả Tóm lại, acid glycolic là một chất trong nhóm acid alphahydroxy, cung cấp liệu pháp hỗ trợ quan trọng trong các rối loạn về da. Nó được sử dụng rộng rãi trong thay da hóa học ở nhiều nồng độ khác nhau, dao động từ 20-70%. Acid glycolic có thể được sử dụng đồng thời với TCA, đại diện cho một kỹ thuật khác đối với thay da độ sâu trung bình. Acid glycolic cũng được sử dụng trong các kem tự điều trị tại nhà. Do những biến chứng như tăng sắc tố, nhiễm trùng, kích ứng và nhạy cảm ánh sáng là rất hiếm nên acid glycolic thường dung nạp tốt.