Silicone

 

Các silicone được sử dụng lần đầu tiên trong mỹ phẩm và một số sản phẩm vào những năm 1950 với một lượng thấp dimethicone độ nhớt trung bình (polydimethylsiloxan – PDMS), được sử dụng để ngăn chặn tác động làm trắng của các lotion dạng xà phòng. Mãi cho đến những năm 1970, người ta mới lo ngại về việc sử dụng chloro fluoro carbon (CFCs) trong các aerosol và các silicone cũng được cân nhắc xem có thể sử dụng như các thành phần trong các công thức mỹ phẩm và người ta cũng dần dần nhận ra các thuộc tính độc đáo của chúng. Kể từ đó, việc sử dụng các silicone đã nhanh chóng được mở rộng gần như tất cả các phân khúc, và đến hôm nay, hơn 40% tất cả các sản phẩm mới chứa silicone với nhiều dạng khác nhau đã được giới thiệu vào thị trường Hoa Kỳ.

Có năm nhóm silicone chính được sử dụng trong mỹ phẩm và một số sản phẩm hiện nay là:

Các silixan dễ bay hơi (cyclosiloxan, cấu trúc vòng) và trọng lượng phân tử thấp có thể được sử dụng đơn lẻ hoặc phối hợp với nhau để điều chỉnh tính dễ bay hơi của nó. Chúng là những dung môi tốt và đáp ứng làm chất mang tốt cho các silicone trọng lượng phân tử cao. Ngoài ra, chúng có nhiệt độ bay hơi rất thấp so với nước hoặc ethanol khiến cho chúng không có cảm giác mát lạnh khi được làm khô như cồn. Các cyclomethicon được phân loại là các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi.

Các dimethicon (PDMSs) là các cấu trúc tuyến tính với trọng lượng phân tử khoảng từ 700 đến hơn 100000. Các dimethicon không bay hơi tồn tại như những chất lỏng với độ nhớt là 5.0mm2/s. Nhũ tương dimethicon giúp xử lý các dung dịch có trọng lượng phân tử cao dễ dàng hơn. Công nghệ polyme emulsion đặc biệt cho phép sản xuất các nhũ tương PDMS tuyến tính trọng lượng phân tử siêu cao với độ nhớt động học bên trong là 200 triệu mm2/s.

Hỗn hợp silicone gồm dimethiconol hoặc các gum dimethicon hoặc các trimethylsiloxysilicate (các nhựa liên kết chéo) được phân tán trong các dimethicon trọng lượng phân tử thấp hoặc các cyclomethicon. Chúng đã được phát triển để dễ dàng trong việc xây dựng công thức và cải thiện khả năng tương thích của các gum phân tử cao.

Dimethicon và các polyme chéo vinyl dimethicon hoặc các hỗn hợp là các chất đàn hồi (được liên kết chéo với các mức độ khác nhau) tạo ra các dạng sản phẩm khác nhau. Chúng tồn tại ở dạng bột, tinh khiết hoặc được tráng bằng các hạt hoặc các gel silicone đàn hồi được phồng lên khi có dung môi (thường là silicone dễ bay hơi).

Các silicone chức năng:

  • Các copolyol dimethicon (các polyether silicone) là các chất lỏng hoặc các sáp có một số nhóm methyl dọc theo khung siloxan đã được thay thế với các nhóm polyoxyethylen hoặc polyoxypropylen. Việc bổ sung các thành phần polyoxyethylen làm gia tăng tính thân nước của các silicone. Các thành phần polyoxypropylen được sử dụng để cân bằng tính kỵ nước bằng cách gia tăng các đặc tính kỵ nước của copolyme. Một số các polyethe silicone này cũng là các chất nhũ hóa nước trong silicone rất tốt. Việc bổ sung các chuỗi alkyl vào các silicone này có thể nhũ hóa nước thành các dầu phân cực thấp đến trung bình. Trong số các silicone được biến đổi polyethe này, dịch lỏng silicone carbinol (hydroxyethoxypropyl dimethicon) có khả năng tương thích tốt với các nguyên liệu hữu cơ có thể hoạt động như một chất làm ướt để phân tán các sắc tố và các hoạt chất ổn định, trong khi đó cũng giúp cung cấp độ ẩm.
  • Các phenyl trimethicon là các chất lỏng trong đó có một số nhóm methyl đã được thay thế bởi các nhóm phenyl. Các nhóm phenyl làm tăng chỉ số khúc xạ và cải thiện khả năng tương thích với các nguyên liệu hữu cơ.

  • Các amodimethicon hoặc các trimethylsilylamodimethicone là các chất lỏng trong đó có các nhóm methyl đã được thay thế bởi các nhóm amin. Các nhóm amin có cực có tác động mạnh mẽ đến các đặc tính lắng đọng của silicone, tạo cho nó ái lực với các bề mặt điện tích âm, chẳng hạn như bề mặt của tóc. Các nhũ tương của các chất lỏng này thường được sử dụng phổ biến.

  • Các alkyl dimethicon là các chất lỏng hoặc sáp trong đó có một số nhóm methyl đã được thay thế bởi các nhóm alkyl tạo ra các dạng silicone-hydrocacbon với khả năng làm biến thể độ nhớt, làm dịu nhiệt độ và đặc tính lưu biến học. Chúng có khả năng tương thích cao với các nguyên liệu hữu cơ.
  • Các copolyme silicone acrylat (acrylate/polytrime thylsiloxymet acrylat copolyme). Những copolyme tạo màng có thể được tạo ra từ cả silicone và các dung môi hữu cơ và tạo ra tính bền, chống bị trôi khi làm sạch.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *