Sản phẩm glycation là gì?

Sơ lược về các giả thuyểt về lão hóa

Ngày càng có nhiều nghiên cứu khoa học tập trung làm sáng tỏ cơ chế sinh hóa và phân tử của quá trình lão hóa. Các cơ chế sinh hóa cơ bản lần đầu tiên được giới thệu vào năm 1956 về các gốc tự do. Lý thuyết này cho rằng quá trình oxy hóa cấu trúc di truyền DNA và các cấu trúc tế bào là động lực chính của quá trình lão hóa. Các lý thuyết gần đây hơn lại cho rằng ti thể tồn trữ phần lớn các mãnh oxy hóa tái hoạt (reactive oxygen species – ROS) gây ra những phản ứng oxy hóa bất lợi cho cơ thể.

Những ty thể không thực hiện tốt chức năng được tích lũy ngày càng nhiều làm xuất hiện các kiểu hình lão hóa, rối loạn quá trình chuyển hóa năng lượng và kiểm soát gốc tự do. Vào năm 1989, Monnier cho rằng lý thuyết lão hóa do ty thể bắt nguồn từ phản ứng Maillard (phản ứng khử đường và protein hay còn gọi là, phản ứng glycation). Các lý thuyết về gốc tự do và phản ứng glycation thường đi đôi với nhau vì gốc tự do và gốc carbonyl tái hoạt (reactive carbonyl species) từ phản ứng glycation thể hiện sự tương tác phức tạp trong cơ thể con người. Phản ứng glycation protein trong ty thể hình thành các superoxid nội bào, ngăn cản chuỗi hô hấp xuyên màng, gây thoái hóa chức năng nguyên bào sợi. Các kết luận về stress oxi hóa có quyết định tuổi thọ con người vẫn chưa được làm sáng tỏ.

Cơ chế hình thành các sản phẩm glycation

Phản ứng Maillard trong trong quá trình chế biến thức ăn có liên quan đến sự hóa nâu của thực phẩm (sự khét). Các phản ứng trung gian tạo ra ROS, RCS hình thành các sản phẩm trung gian gọi là phản ứng cuối glycation (AGEs – advance glycation end product). Khói thuốc lá có chứa RCS cũng có thể phản ứng với protein trong cơ thể tạo ra AGEs. Carbohydrate là thành phần cơ bản của chế độ ăn, cung cấp nguồn năng lượng nhanh cho cơ thể dưới dạng glucose. Khi hàm lượng đường khử tồn tại càng nhiều, chúng sẽ phản ứng với protein và tạo thành AGEs. Lượng AGEs nội sinh và ngoại sinh sẽ quyết định sự hình thành các căn bệnh và dấu hiệu lão hóa được gọi là các stress carbonyl.

AGEs có đặc trưng bởi hoạt tính phát huỳnh quang nội bào và ngoại bào. Quá trình này có thể tiên hành trên mẫu protein được ủ với đường khử (fructose) hoặc RCS (methylglyoxal) trên mô hình ống nghiệm. Quá trình hình thành AGEs được theo dõi nhờ sự phát hiện tỷ lệ các hợp chất mang màu ở 2 bước sóng 370/440 nm. Tốc độ hình thành phụ thuộc vào mẫu glycation. Ví dụ: sự hình thành AGEs trên mẫu albumin với glycolaldehyde xảy ra nhanh hơn so với 3-deoxyglucosone hoặc methylglyoxal. Lượng đường khử càng thấp, thời gian xảy ra phản ứng càng dài.

Sự tícht lũy AGEs và những liên quan đến tuổi tác, cân nặng

Ở người, lượng AGEs tích lũy gia tăng theo tuổi tác và các căn bệnh liên quan đến tuổi tác. Béo phì và thừa cân là yếu tố nguy cơ cho nhiều căn bệnh mãn tính như tiểu đường, tim mạch. Với những người không bị tiểu đường, các chỉ số biểu thị sự glycation hemoglobin gia tăng theo tuổi tác. Các đối tượng béo phì và có lượng AGEs ở da cao hơn so với người bình thường. Tiêu thụ đường khử fructose trong một thời gian dài gây hình thành nên những phân tử collagen liên kết chéo mất chức năng (là một dang AGEs) ở mô hình da chuột.

Nhiêu nghiên cứu chỉ ra việc giới hạn lượng calori tiêu thụ bằng cách giảm lượng đường làm giảm các stress do RCS và ROS, lượng collagen bị glyction hóa và tốc độ glycation hóa suy giảm.

Một thử nghiệm tìm hiểu sự tương quan giữa mức cân nặng và với các sản phẩm AGEs trong da phát huỳnh quang. Thí nghiệm tiến hành trên 66 phụ nữ châu Âu da trắng khỏe mạnh, không hút thuốc, độ tuổi trong khoảng 21 đến 59. Kết quả cho thấy có sự tương quan tỉ lệ thuận giữa sự gia tăng cân nặng và gia tăng các sản phẩm tích lũy.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *