Mỹ phẩm có thật sự nguy hiểm? Tháng Mười 4, 2017Tháng Mười 4, 2017RD Vấn đề này vẫn còn gây tranh cãi nhiều năm qua, mỗi năm luôn có những báo cáo trên các phương tiện truyền thông và internet liên quan đến các chất có tiềm năng gây độc xuất hiện trong mỹ phẩm (Chì, Thủy Ngân, Paraben) và những điều nguy hiểm mà họ công bố. Người tiêu dùng có nên lo lắng về điều đó? Liệu những thông tin đó là uy tín, do các nhà nghiên cứu khoa học công bố hay là sự hiểu lầm và thổi phồng của dư luận? Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu… Paraben Paraben là nhóm các hóa chất thường được sử dụng làm chất bảo quản trong thực phẩm, mỹ phẩm và các sản phẩm điều trị. Paraben có nguồn gốc từ para-hdroxybenzoic acid (PHBA) – một chất tồn tại tự nhiên trong nhiều loại trái cây và rau xanh. Paraben có nhiều dạng khác nhau: methylparaben, ethylparaben, propylparaben, butylparaben và isobutylparaben. Paraben thường được sử dụng làm chất bảo quản trong các sản phẩm tiêu dùng vì chúng có tác dụng rất tốt, giữ cho sản phẩm luôn mịn và không bị nhiễm khuẩn – trong khi giá cả lại rất hợp lý. Việc sử dụng Paraben bị một cú hit mạnh vào năm 2004 sau một nghiên cứu của Dr.Philippa Darbre tại University of Reading, Anh đã đưa ra kết quả 18 trên 20 mô ung thư vú có chứa Paraben. Vì Paraben có thể có những hoạt động giống với estrogen và estrogen thì lại có khả năng thúc đẩy mô ung thư, và họ nghĩ đó chính là vấn đề. Sự có mặt của Paraben trong mô ung thư vú bị được các phương tiện truyền thông coi như là bằng chứng cho thấy Paraben góp phần gây ung thư vú. Nhưng điều đó là không chính xác. Mặc dù sự hiện diện của Paraben là đáng chú ý nhưng nghiên cứu đó không cho thấy bất cứ bằng chứng nào chứng minh Paraben đã gây ra các bệnh ung thư hoặc góp phần làm cho nó phát triển. Khối ung thư vú cần nguồn cung cấp máu rất lớn, vì vậy mà có khả năng những hóa chất có trong máu sẽ có mặt trong các khối u. Trong một tuyên bố sau đó trên các phương tiện truyền thông, Tiến sĩ Darbre đề cấp đến nghiên cứu của cô năm 2014 rằng “Không có bằng chứng nào chứng minh sự hiện diện của Paraben đã gây ra các bệnh ung thư vú”. Kể từ đó hàng chục các nghiên cứu trên khắp thế giới được thực hiện về sự an toàn của Paraben và một lần nữa đã chứng minh rằng: Paraben bị phân hủy, chuyển hóa và thải trừ ra khỏi cơ thể dạng không độc tính. Hiện nay ở Úc và quốc tế, cộng đồng khoa học vần xem việc sử dụng Paraben trong mỹ phẩm là an toàn. Để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, một số công ty đã bắt đầu sản xuất các sản phẩm không chứa Paraben để người tiêu dùng có thể yên tâm. Aluminium Mối bận tâm liên quan đến bệnh ung thư khi sử dụng Aluminium trong các sản phẩm khử mùi và triệt mồ hôi. Trong những năm đầu 2000, các hãng tin khác nhau đã bắt đầu báo cáo về sự liên hệ giữa việc sử dụng các sản phẩm ức chế tiết mồ hôi có chứa Aluminium và ung thư vú. Những báo cáo tương tự liên quan giữa việc sử dụng những sản phẩm đó và khởi đầu của bệnh Alzheimer. Những mối liên quan này chưa bao giờ được chứng minh khoa học mặc dù có nhiều nghiên cứu về nó. Aluminium hoạt động bằng cách ngăn chặn các ống tiết mồ hôi để làm giảm việc sản sinh ra mồ hôi. Một số người cho rằng, tác động này làm cho độc tố trong người chúng ta không được đào thải ra ngoài gây tăng nồng độ trong hệ bạch huyết. Tuy nhiên, các khối ung thư vụ không có nguồn gốc ở các hạch bạch huyết mà bắt đầu ở vú sau đó di chuyển vào hạch bạch huyết. Một nghiên cứu khác lại cho thấy không có sự khác biệt về nồng độ Aluminium ở các mô ung thư và các mô xung quanh. Hiện nay, không có mối liên hệ rõ ràng giữa việc sử dụng các sản phẩm dưới cánh tay có chứa Aluminium và ung thư vú. Tương tự như vậy, các nghiên cứu đã cho thấy không có mối quan hệ giữa bệnh Alzeheimer và sản phẩm khử mùi hoặc ức chế tiết mồ hôi. Mỗi ngày, mỗi người chúng ta tiếp xúc với Aluminium qua thực phẩm, bao bì, nồi chảo, thuốc, thậm chí cả không khí và nước. Quan điểm chính thức của cả hiệp hội Alzheimer của Mỹ và Úc đều cho rằng mối liên hệ giữu sự hấp thụ Aluminium và bệnh Alzheimer ngày càng khó xác định. Mặc cho kết quả của các nghiên cứ, một số nhà sản xuất đã bắt đầu sản xuất các sản phẩm không chứa Aluminium cho những người tiêu dùng còn lo ngại về chất này. Triclosan Triclosan đã được phát triển như là một tác nhân chống vi khuẩn, được sử dụng trong các bệnh viện chủ yếu là trong phẩu thuật. Tuy nhiên, sự hữu dụng của nó ngày càng được nhìn nhận khi số lượng sản phẩm thêm Triclosan vào công thức càng tăng như là lăn khử mùi, xà phòng, kem đánh răng, mỹ phẩm và cả các sản phẩm vệ sinh nhà cửa. Triclosan cũng được sử dụng như một loại thuốc trừ sâu và có thể trong một số trường hợp nó có thể phá vỡ các hóa chất độc hại khác như dioxin. Triclosan bị một cú hít dư luận vào năm 2000 sau khi Viện hàn lâm khoa học Mỹ ghi nhận mức tăng của loại hóa chất này trong môi trường và ngày càng nhiều trong các sản phẩm sử dụng hàng ngày gây nên nhiều lo ngại. Các nghiên cứu được tiến hành bởi các nhà khoa học tại Đại học California phát hiện ra rằng khi tiếp xúc kéo dài với Triclosan các con chuột trong phòng thí nghiệm sẽ bị xơ gan và ung thư. Một số nghiên cứu khác đã cho thấy Triclosan có thể gây rối loạn nội tiết tố, làm giảm sự co cơ và giảm sức đề kháng của vi khuẩn. Trong khi việc sử dụng quá nhiều Triclosan trong các sản phẩm cần được nghiên cứu kỹ hơn thì các chuyên gia Úc đã nêu bật giá trị và tầm quan trọng của nó khi được sử dụng một cách chính xác và điều độ. Các giáo sư tại Khoa Răng hàm mặt đã chứng minh được rằng Triclosan có thể khắc phục được các tình trạng như viêm lợi và chảy máu nướu răng. Tại Úc, một đánh giá rủi ro đầy đủ được tiến hành bởi NICNAS không tìm thấy nguyên nhân cho mối quan tâm của cộng đồng nói chung mặc dù đã đề nghị kiểm soát nồng độ tối đa của Triclosan là 0,3% trong các sản phẩm chăm sóc da và mỹ phẩm. Hiện nay, các mỹ phẩm có chứa trên 0,3% Triclosan trong công thức bị ghi rõ “độc tính” trên nhãn, làm ảnh hưởng đến chiến lược marketing của sản phẩm. Cục quản lý Thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đang có kế hoạch để phát hành một báo cáo cập nhật về Triclosan trong năm 2016, đồng thời người tiêu dùng hiện nay cũng đã dễ dàng tìm kiếm các sản phẩm không chứa Triclosan trên thị trường. Formaldehyd Formaldehyde là một hợp chất hữu cơ với nhiều ứng dụng khác nhau. Mặc dù được biết đến với tác dụng ướp xác, nó cũng được sử dụng trong sản xuất vật liệu xây dựng, dệt may, sản phẩm tẩy rửa gia dụng, nhựa, mỹ phẩm và các sản phẩm tiêu dùng. Formaldehyde cũng tồn tại tự nhiên trong một số loại thực phẩm như là trứng. Formadehyde thông thường được sử dụng ở dạng tinh khiết, nhưng có một chút thay đổi và được dùng dưới tên formalin. Nó hoạt động như một chất bảo quản để bảo vệ sản phẩm khỏi bị nhiễm độc. Formadehyde được phân loại như là một chất gây ung thư nhóm 1 (có thể gây ung thư ở người) do Tổ chức y tế Thế giới nghiên cứu về ung thư công bố. Nó cũng có thể gây kích ứng da, khó thở, ngộ độc khi ăn. Vậy, tại sao nó vẫn được sử dụng trong các sản phẩm sử dụng hàng ngày. Như các loại hóa chất khác, nồng độ của formadehyde trong một sản phẩm là rất quan trọng. NICNAS đã đánh giá và thiết lập một giới hạn tối đa an toàn cho việc sử dụng chất này trong mỹ phẩm. Các sản phẩm tiếp xúc miệng như kem đánh răng chỉ có thể chứa tối đa 0,1% formadehyde, trong khi sản phẩm làm bền móng tay có thể chứa đến 5%. Tất cả các sản phẩm khác (như dầu gội đầu, chất làm thẳng tóc) có thể chứa đến 0,2%. Tại các nồng độ thấp này, việc sử dụng formadehyde được coi là an toàn. NICNAS đã lưu ý rằng những người có làn da đặc biệt nhạy cảm vẫn có thể bị kích thích thậm chí ở nồng độ rất thấp. Năm 2010, Cục thương mại và tiêu dùng Úc đã tiến hành một cuộc khảo sát nồng độ formadehyde trong một số sản phẩm và đã thu hồi 2 sản phẩm chứa nồng độ formadehyde cao hơn quy định. Phthalates Phthalate là một nhóm hóa chất khác được tìm thấy trong mỹ phẩm và được đánh dấu đỏ đối với môi trường. Chúng thường được dùng để làm cho sản phẩm mềm và linh hoạt nhưng cũng có thể được tìm thấy trong các sản phẩm như sơn móng tay, keo xịt tóc (để làm cho sản phẩm ít giòn hoặc cứng) và nước hoa. Phthalate được sản xuất từ dầu mỏ và có hơn 20 loại được sử dụng phổ biến. Vì các phthalate khác nhau có cấu trúc hóa học, độc tính và cách sử dụng cũng như độ an toàn khác nhau nên chúng không được khái quát thành một nhóm mà phải tìm hiểu từng loại một. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở nồng độ cao lặp lại định kỳ, phthalate có thể gây ra các rối loạn nội tiết, nghĩa là nó có thể phá vỡ cân bằng hocmon của cơ thể, dẫn đến những vấn đề tăng trưởng, đặc biệt ở nam giới. Các nghiên cứu khác cũng nêu lên có thể có mối liên hệ giữa Phthalate và bệnh đái tháo đường Type 2. Chính vì vậy, Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ đã áp dụng lệnh cấm lên một số loại phthalate không được sử dụng trong mỹ phẩm. Nghiên cứu tiến hành tại Úc đã xác định một mức độ nhỏ các nguy cơ liên quan đến một loại phthalate bis(2-ethylhaxyl) phthalate hoặc DEHP, các quy định cấm của NICNAS với chất này thường ở đồ chơi trẻ em. Chì có trong son môi của bạn không? Các tin tức báo chí chi tiết về hàm lượng Chì và các kim loại khác trong son môi liên tục được cập nhật, nhưng liệu người tiêu dùng có nên lo lắng về điều này? Một nghiên cứu năm 2013 của Đại học California Berkley tiến hành kiểm tra hàm lượng kim loại trong 32 loại son môi khác nhau. Các nhà nghiên cứu tìm thấy nhôm, mangan (có thể gây vấn đề về thần kinh) và titan trong tất cả các sản phẩm mà họ đã thử nghiệm, có ¾ tổng số các sản phẩm có chứa Chì (chất có thể gây ảnh hưởng lên hệ thần kinh, thiểu năng ở trẻ em). Nhiều loại son môi và son nhũ còn chứa niken, coban, cũng như cadmium và crom- một chất được biết đến với tác dụng có thể gây ung thư. Vậy tại sao các nhà sản xuất lại thêm các thành phần này vào sản phẩm của họ? Câu trả lời là họ không làm điều đó. Chúng tồn tại trong các sản phẩm dưới dạng tạp chất, lẫn trong các thành phần như sáp, dầu hoặc các phẩm màu khoáng được sử dụng trong công thức. Do tính chất khó loại bỏ của chúng mà thực tế là chúng cũng tồn tại trong môi trường tự nhiên, bao gồm cả nước nên gần như là không thể nếu muốn loại trừ tất cả các dấu vết của chúng. Tuy nhiên, khoan hẵng ném bỏ những thỏi son môi của bạn. Những chất này tồn tại trong đó không phải là vấn đề mà điều quan trong là nồng độ của chúng. Vậy nồng độ nào được coi là đủ cao để gây độc hại hoặc bao nhiêu được coi là an toàn? Hãy nhớ rằng, ánh sáng mặt trời cũng đã được kiểm chứng là tác nhân có thể gây ung thư nhưng chúng ta vẫn đi ra ngoài, thậm chí là đi tắm nắng. Tất cả đều phụ thuộc vào liều lượng. Ngoại trừ Crom, nghiên cứu đã kết luận rằng nồng độ các kim loại là chấp nhận được trong “mức cho phép sử dụng hàng ngày” được xác định bởi các nhà nghiên cứu thông qua sự so sánh mức độ nhiễm các chất này của nước và không khí. Về cơ bản, bạn có thể bị nhiễm Chì nhiều hơn từ nước uống chứ chẳng phải son môi. Tuy nhiên, nghiên cứu này đã kết luận rằng các nghiên cứu về hàm lượng kim loại trong các sản phẩm là cần thiệt, đặc biệt là đối với Crom. Kem chống nắng Mặc dù kem chống nắng không chính thức là mỹ phẩm (chúng được xếp vào các sản phẩm điều trị) nhưng chúng tôi cũng sẽ đưa ra ở đây bởi nó được sử dụng rất phổ biến, đặc biệt là ở Úc. Kem chống nắng đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ lan da của chúng ta trước các tia UVA và UVB có hại từ ánh nắng mặt trời. Tác dụng của chúng đã được chứng minh là có thể giúp ngăn ngừa úng thư da bao gồm ung thư sắc tố da và ung thư biểu mô tế bào đáy. Trong những năm gần đây đã có một số mối quan tâm về công nghệ hạt nano trong kem chống nắng. Điều này liên quan cụ thể đến các phân tử nano Kẽm oxid (ZnO), Titan oxid (TiO2)và các độc tính tiềm ẩn của các hóa chất này. Cục quan lý các sản phẩm điều trị (TGA), dựa trên một số tờ báo được xuất bản (đến tháng 5 năm 2013) cũng như các ý kiến của các cơ quan y tê, đã xác định rằng các phân tử nano trên là an toàn. Một số nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và trên động vật cũng như da người đều chỉ ra rằng, các phân tử nano không xâm nhập vào các lớp tế bào nằm dưới da, chúng chỉ giwois hạn ở lớp sung. Điều này cho thấy sự hấp thu là hoàn toàn không thể. Một nghiên cứ khác được công bố vào năm 2014 cho thấy khi tiếp xúc với các hạt nano kẽm oxid, các tế bào miễn dịch ở người (đại thực bào) có thể hấp thu chúng và tiêu hóa chúng thành các mảnh nhỏ. Dựa trên những bằng chúng hiện nay, cả TiO2 và ZnO dạng hạt nano đều không gây hại khi sử dụng trong kem chống nắng. Kết luận Trong khi các nhà khoa học đưa ra những bằng chứng về tính an toàn của các hóa chất trên, người tiêu dùng vẫn là người đưa ra quyết định cuối cùng cho sự lựa chọn của họ mua hay không mua sản phẩm chứa những chất này. Người tiêu dùng cũng nên mua những sản phẩm từ các nhãn hiệu có uy tín, các nhãn hàng nhập khẩu giá rẻ hoặc sao chép lại có thể không được thông qua các thử nghiệm và đánh giá thích hợp nên có thể không chứa đủ các chất mà họ công bố. Trong việc theo đuổi của chúng tôi về cái đẹp, khôn ngoan là khi chúng ta nhớ rằng mỹ phẩm là sự kết hợp phức tạp của các loại hóa chất. Đạt được các hiểu biết cơ bản về tên hóa học của các thành phần, chúng là gì, tác dụng như thế nào là điều cần thiết để đi một đoạn đường dài với người tiêu dùng trong việc giúp họ có quyết định đúng đắn khi lựa chọn sản phẩm có lợi cho mình.