Những sai lầm khi sử dụng Alpha Hydroxyl Acid trong lâm sàng

HA có tác động rất nhiều trên chức năng và hình thái học của da, trải dài tất cả các lớp của da nên đã góp phần đem lại nhiều lợi ích lâm sàng đã được quan sát thấy khi sử dụng HA.

Da khô và dày sừng

Những nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng lớp sừng của da khô thường dày hơn và rắn chắc hơn da bình thường và lớp biểu bì thường bị teo. Sử dụng công thức AHA tại chỗ trên da khô giúp khôi phục lại lớp sừng và lớp biểu bì trở về trạng thái lâm sàng bình thường trước đó. Sự khôi phục này đi cùng với việc giúp giảm khô da rõ rệt trên lâm sàn, đồng thời khi ngừng điều trị AHA tại chỗ vẫn còn tiếp tục duy trì được tình trạng bình thường tương đối của da lên đến 2 tuần khi lớp biểu bì dày rắn chắc được tái thành lập.

Hiện nay, chúng ta đã tìm ra hiệu quả của các công thức HA cho những tình trạng da khô do nhiều vấn đề, những tình trạng này có thể được cải thiện bằng cách phối hợp công thức của AHAs, PHAs và acid bionic để giúp khôi phục và duy trì lớp sừng và lớp biểu bì bình thường. PHAs và acid bionic có khả năng giữ nước và tính dịu nhẹ vốn có cho da, đem lại nhiều ưu điểm đặc biệt. Công thức kết hợp HA nhận thấy có hiệu quả không gì bằng cho điều trị khô da và điều trị các tình trạng kháng điều trị khác như da lòng bàn tay và bàn chân bị chai sần.

Hình 1. Bàn chân chai cứng được điều trị 1 lần/ buổi tối với kem chứa phối hợp AHA/PHA/bionic acid trong vòng 3 tuần.

(a) trước điều trị, (b) sau điều trị.

Dày sừng (chai cứng) và loạn sắc tố

Những ghi nhận về các dạng tổn thương dày sừng tại chỗ gồm có dày sừng tiết bã, dày sừng quang hóa, đốm da, đồi mồi và sắc tố lốm đốm. HAs làm bong tróc các đốm sắc tố dày sừng và AHAs được nhận thấy giúp tổng hợp melanin. PHAs và acid bionic, phức kim loại như đồng là yếu tố kết hợp thiết yếu trong sản xuất melanin. HAs có thể hiệu quả khi dùng một mình hoặc phối hợp với các tác nhân làm sáng da để cải thiện tình trạng loạn sắc tố.

Các đường nhăn/ nếp nhăn và lão hóa quang hóa

AHAs, PHAs, các acid bionic hiện nay được sử dụng rộng rãi như những chất chống lão hóa tại chỗ. Chúng được dùng trong thay da bề mặt để khởi xướng cho chu kì của lớp biểu bì và khởi xướng các giai đoạn tái tạo lại trung bì, chúng được dùng trong những công thức điều trị bệnh theo hướng dẫn của bác sĩ và được dùng trong nhiều loại mỹ phẩm. Những thay đổi này bao gồm tăng độ dày của lớp sừng và lớp trung bì nông, cải thiện các thuộc tính của hàng rào bảo vệ, tăng số lượng của acid hyaluronic ở lớp trung bì và các glycosaminoglycan của da khác đồng nghĩa với việc tăng độ dày của da, giảm bớt tình trạng khô lâm sàng và giảm bớt tình trạng loạn sắc tố.

Hình 2. Nhuộm acid mucopolysaccharides/glycosaminoglycans (GAGs):×400.

Mẫu nhuộm vùng da cẳng tay không được điều trị

Mẫu nhuộm sau khi bôi 8% kem acid lactobionic (pH 3.8) trong 12 tuần. Tăng mật độ vết màu xanh của keo sắt cho thấy sự gia tăng trong GAGs.

Hình 3. Bệnh nhân nữ 49 tuổi sau khi sử dụng kem acid maltobionic 8% (pH 3,8) 2 lần/ ngày trong 12 tuần.

Tác dụng như chất thay da

Một vài chất đã được sử dụng như những chất thay da, những chất này bao gồm phenol, acid trichloroacetic (TCA), acid salicylic và AHAs. Phenol, dung dịch nước acid yếu, thực chất là acid phenylic và tương đối khác biệt với AHAs, tương tự như TCA. Cả phenol và TCA có lịch sử lâu đời được dùng làm các chất thay da. Cả hai chất này đều là chất làm biến tính, ăn mòn da mạnh, gây ra sự phá hủy hóa học nhanh chóng trên da. Không có tính dinh dưỡng, lợi ích của chúng là thay thế sau tổn thương lớp biểu bì bị phá hủy và lớp trung bì nông thông qua cơ chế sữa chữa những tổn thương. Acid salicyclic (SA), acid 2-hydroxy-benzoic, acid phenolic ngày nay được sử dụng như một chất thay da bề mặt chủ yếu dùng cho mụn trứng cá.

Trong số các HAs, acid latic và acid glycolic là tác nhân thay da phổ biến nhất. Nhiều loại AHAs có tính dinh dưỡng và sinh lý, đem lại cho chúng ưu điểm hơn phenol, TCA và SA. Ở nồng độ cao lên tới 70% hoặc cao hơn, acid lactic hoặc glycolic có thể được sử dụng trên da trong một thời gian ngắn để đạt được sự bong tróc và khởi xướng cho chu kỳ tái tại trung bì và biểu bì. Hiện nay, AHAs được sử dụng chủ yếu như một chất thay da bề mặt đem đến lợi ích anh toàn và hiệu quả trong tiến trình thay da. Chất thay da AHAs có thể được phối hợp an toàn với các liệu trình thẩm mỹ khác để tối ưu hóa kết quả điều trị như điều trị laser, ánh sáng, tiêm filler và botulium toxin type A.

Tác động đồng vận với các thuốc tại chỗ

Hiệu quả tăng cường có thể được quan sát thấy ở nhiều tình trạng da khi kết hợp AHAs trong công thức có chứa những thành phần hoạt động để điều trị riêng biệt. Ví dụ các thành phần hoạt động giúp tăng cường hiệu quả là các retionid, chất kháng khuẩn, kháng nấm, chống ngứa và corticosteroid. Cơ chế bổ sung hoặc tăng cường hoạt động của các chất khác có thể bị nghi ngờ trong một số trường hợp, ví dụ với retinoid và chất kháng khuẩn khi điều trị mụn trứng cá tại chỗ tại vùng mà hoạt động của các thành phần retinoid tham gia bình thường hóa tình trạng dày sừng trong các nang và cho phép sự xâm nhập hiệu quả hơn của các kháng sinh vào các đơn vị nang. HAs cũng giúp tăng cường hiệu quả điều trị của thuốc bằng cách cung cấp những tác động bổ sung. Ví dụ, dùng đồng thời PHA, gluconolactone với acid azelaic cho thấy cải thiện kết quả điều trị cho bệnh rosaces bằng việc giảm đỏ da và giảm bớt sự hiện diện của các mạch máu dãn bằng cách tăng độ dày chung của da.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *