Kem nền và phấn nền (Phần 2)

Độ bám

Độ bám của một kem nền/phấn nền được xác định dựa trên mối quan hệ giữa thành phần chất màu/chất làm đầy và lượng kem bám lại sau khi sử dụng sản phẩm. Nhu cầu của khách hàng rất đa dạng, tùy thuộc vào loại da, thời trang và điều kiện khí hậu. Những làn da dầu thường thích loại mỹ phẩm lì hoặc bán lì trong khi nhưng công thức có chất dưỡng ẩm lại phù hợp với da khô hơn. Và vì chúng chứa gần như 100% nguyên liệu khô, phấn nền dạng bột có thể tạo thể chất “lì” và được làm mềm nhờ vào các nguyên liệu phản xạ đục mờ như mica và một lượng nhỏ bột màu trân châu mịn. Độ bám của kem/phấn nền dạng nhũ tương có thể đa dạng từ khô ráo và lì đến ẩm tựa như sương. Một công thức với 12-14% phẩm màu và 5-10% dầu không bay hơi sẽ tương đối “lì”, thích hợp với người trẻ, da nhiều dầu. Ngược lại, một sản phẩm chứa 14-16% phẩm màu và 25-35% dầu không bay hơi sẽ phù hợp với làn da khô lão hóa. Thông thường, những sản phẩm nền nước sẽ có dạng lì, bán lì hoặc tự nhiên và khô ráo, vì công thức thân nước ẩm sẽ tạo cảm giác bết rít trên da và không thoải mái khi sử dụng.

Sử dụng

Phấn nền/kem nền được thoa bằng tay hoặc với miếng bọt biển khô hay ướt, những chỉ tiêu để đánh giá cho hiệu quả sử dụng là độ lan tỏa, độ hòa hợp với làn da và thời gian giữ được lớp trang điểm. Phấn phải lưu lại một khoảng thời gian đủ lâu để tạo sự bao phủ đồng đều trên mặt mà không bị nứt gãy hay trở nên không đồng đều. Nếu cần sử dụng thêm sản phẩm khác để đạt độ che phủ, khi thoa lên da phải thật nhẹ nhàng để không gây sự xáo trộn.

Đa số người sử dụng phấn nền/kem nền đều muốn giữ lớp trang điểm trông tươi trẻ cả ngày nên thỉnh thoảng sẽ dậm phấn nhẹ lại. Người tiêu dùng có da dầu hoặc da hỗn hợp thường quan tâm đến vấn đề này nhiều vì dầu tiết nhiều sẽ làm ảnh hưởng đến lớp phấn. Những thành phần có thể kéo dài thời gian lớp trang điểm gồm có chất làm đầy hấp thụ dầu để hấp thụ bã nhờn được bài tiết và tạo màng phim để ngăn ngừa phấn bị trôi đi. Sản phẩm dạng tự nhiên hoặc bán lì sẽ tốt hơn sản phẩm dạng lì về khoản này, vì khi dạng lì khi bị bão hòa với bã nhờn sẽ gây ra sự khác biệt rõ rệt với những vùng da khác.

Chất độn màu

Chất độn màu là những thành phần không nhằm tạo nên màu sắc hay độ che phủ nhưng có vai trò hỗ trợ cho các chất màu, cải thiện sự phân tán để giảm bớt lượng chất màu cần sử dụng. Đây là nhóm các chất thường dùng cho việc thay đổi màu sắc trong một dòng sản phẩm có cùng độ bóng để duy trì tỷ lệ phần trăm chất màu không đổi. Vì chiếm tỉ lệ phần trăm cao trong công thức, chất độn màu thường ảnh hưởng rất lớn đến chức năng cũng như thẩm mỹ của sản phẩm. Những chất độn cấu trúc phẳng thường bám lâu và tạo cảm giác mềm mượt trên da.

Talc

Talc – một dạng muối nhôm magnesium silicate ngậm nước – là dạng chất độn thường sử dụng nhất trong sản phẩm tạo nền. Talc dùng trong mỹ phẩm phải đạt độ sạch và sáng bóng, không nhiễm tạp khoáng, tỉ lệ kim loại nặng thấp (<20 ppm chì, <3 ppm arsen). Talc là khoáng chất tự nhiên, những loại talc dùng được trong mỹ phẩm thường có nguồn gốc Ý, Pháp, Mỹ, Ấn Độ và Trung Quốc. Quặng talc sau khi được nghiền nát sẽ được làm khô, đôi khi sẽ được rửa sạch và cuối cùng phân loại dựa theo kích thước hạt cụ thể, trong đó hai dạng thù hình thường gặp là đại tinh thể và bán đại tinh thể. Điển hình của quặng talc đại tinh thể cấu trúc phẳng là ở Ý, Pháp và Vermont. Talc đại tinh thể có màu đục, tạo cảm giác mượt mà trên da, độ trơn chảy tốt và khả năng nén trung bình trong khi dạng bán đại tinh thể lại có khả năng chịu nén tốt hơn.

Mica

Mica là dạng muối kali nhôm silicate cấu trúc phẳng nhưng cứng và đục hơn talc. Mica dùng trong mỹ phẩm thường được khai thác ở Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ bằng phương pháp nghiền ướt hoặc nghiền khô. Mica nghiền ướt có tỷ trọng biểu kiến cao hơn, mượt mà hơn, ít hấp thụ các nguyên liệu khác trong công thức, ít đục nhưng cũng đắt tiền hơn so với loại mica nghiền khô. Sau khi nghiền, mica được làm khô và phân loại dựa theo kích thước hạt, loại dùng làm chất độn trong kem nền hoặc phấn nền thường có kích thước dưới 44µm. Mica dạng vảy trong suốt được dùng trong phấn nền hoặc kem nền để tạo cảm giác mượt mà, mềm mịn mà không làm da trở nên trắng bệt. Trong hỗn hợp bột, chỉ số khúc xạ của mica là 1,58 tạo độ bóng nhẹ cho sản phẩm, điều này có thể là ưu điểm hoặc nhược điểm tùy sở thích của mỗi người.

Sericite

Sericite là một dạng mica có cả tính chất của talc và những mica khác. Khi so sánh với những mica khác, sericite đục hơn, có tỷ trọng biểu kiến cao, khả năng chịu nén tốt, ít hấp thụ dầu và ít tạo độ bóng hơn. Do có hàm lượng nước trong tinh thể cao hơn mica, sericite làm ẩm da tốt hơn. Sericite thường dùng trong phấn nền dạng nén để tạo cảm giác mềm mịn, ẩm mượt, phấn trơn dễ đánh và ít bị rơi bụi khi lấy phấn.

Chất độn chuyên dụng

Những chất độn chuyên dụng có khả năng điều chỉnh thể chất và góp phần hoàn thiện sản phẩm. Nguyên liệu có cấu trúc phẳng với bề mặt trơn bóng như bismuth oxychlorid, boron nitride, lauroyl lysine, dẫn xuất của tinh bột và mica composite sẽ trượt trên da và tạo cảm giác dễ chịu khi được thoa đều. Các hợp chất có hình cầu hữu cơ hoặc vô cơ điển hình như là nylon, polymethylmethacrylate, polyurethane, polyethylene, polyethylene/polyacrylates copolymer, polyvinylidene copolymer, talc, ceramic composites và silica hoạt động giống như những vòng bi, cho phép phân tử có thể trượt lên nhau dễ dàng trên da,. Hàm lượng của những hợp chất có dạng hình cầu này trong công thức càng nhiều, sản phẩm sẽ càng giảm độ bám lại trên da. Ngoài ra, chất độn cũng có vai trò hấp thụ nước hoặc bã nhờn, đảm bảo cho lớp trang điểm lưu lại trên da một thời gian đủ dài, nổi bật nhất là kaolin, silica rỗng, calcium silicate và hạt acrylate copolymer. Tùy thuộc vào thành phần hóa học và cấu trúc mà chất độn chuyên dụng có thể có đặc tính riêng về mức độ hấp thụ dầu, độ đục, tỷ trọng biểu kiến và khả năng chịu nén. Tùy theo yêu cầu của sản phẩm và chi phí sản xuất mà nhà bào chế nên có sự lựa chọn phù hợp.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *