Hoạt chất mỹ phẩm đối với bệnh lý rụng tóc Tháng Mười Một 25, 2017RD Đối với cả nam và nữ giới, tóc đóng vai trò như một dấu chỉ cho các dấu hiệu về sức khỏe. Hơn 40% phụ nữ và 50% nam giới có những biểu hiện rụng tóc ít nhất một lần trong đời. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến rụng tóc là do các yếu tố về di truyền có liên quan đến hormone androgen, là một dạng hormone sinh dục nam. Ngành công nghiệp mỹ phẩm hiện đại đã tiến hành chiết xuất một số thành phần hoạt chất từ thực vật có tác dụng điều trị. Bài viết sẽ bàn luận về một số hoạt chất tiêu biểu và ứng dụng của chúng trong điều trị rụng tóc. Polyphenol Các chất chống oxy hóa như polyphenol (bao gồm flavonoid) có khả năng trung hòa các gốc tự do, giảm các yếu tố stress oxy hóa. Các nhà khoa học Nhật Bản tiến hành một thử nghiệm trên một sản phẩm có chiết xuất từ hạt dâu có chứa hoạt chất proanthocyanidin. Hoạt tính của hoạt chất được quan sát cả trong quy mô phòng thí nghiệm và lâm sàng. Dịch chiết proanthocyanidin 3% có hiệu quả tương tự minoxidil 1% trong tác dụng chuyển đổi lông chuột từ giai đoạn telogen sang giai đoạn anagen. Procyanin B-2 (dạng dimer của epicatechin) cho hiệu quả mọc tóc tốt nhất trên mô hình thử nghiệm trong ống nghiệm. Năm 2001, nghiên cứu lâm sàng đầu tiên trên sản phẩm đường thoa có chứa procyanidin B-2 cho tác dụng mọc tóc. Trong một nghiên cứu mù đôi có nhóm chứng trên 29 đối tượng mắc phải tình trạng rụng tóc do androgen. 19 đối tượng được sử dụng sản phẩm có hoạt chất, 10 đối tượng còn lại thuộc nhóm chứng (placebo). Kết quả cho thấy 78.9% đối tượng được điều trị có những dấu hiện cải thiện rõ rệt. Sau các mốc thời gian 6 và 12 tháng, nhóm điều trị có lượng tóc mọc lại rõ rệt so với thời điểm bắt đầu. Các nghiên cứu và procyanidin đưa ra những hiểu biết rõ hơn về cơ chế, hoạt động sinh hóa của sợi tóc. Các yếu tố tăng trưởng như TGF-β, FGF-5, TNF-α,IL-1α, và IL-1β có tác động cản trở quá trình mọc tóc. Dựa trên nhiều bằng chứng nghiên cứu cho thấy procaynidin B-3, được chiết xuất từ vỏ lúa mì có khả năng ức chế hoạt động của TGF-β1. Procyanidin B-2 làm giảm biểu hiện của protein kinase C (một tác nhân ức chế chu trình sinh trưởng của sợi tóc) Chiết xuất dâu tây cũng được ứng dụng trong điều trị rụng tóc. Các nghiên cứu lâm sàng cũng cho thấy tác dụng mọc tóc của capsaisin. Hoạt chất rasberry keton(RK), một cấu trúc dạng vòng thơm có trong dâu tây cũng cho tác dụng tương tự. Isoflavone và đậu nành Isoflavones là một hoạt chất hữu cơ có hoạt tính sinh học tương tự estrogen, nên có tên gọi chung là phytoestrogen. Trong một nghiên cứu cho thấy, isoflavone tác dụng làm tăng số lượng nang tóc và biểu hiện IGF-I. Trong một nghiên cứu khác cho thấy, cả isoflavon (75mg/ngày) và capsaicin (6mg/ngày) được chỉ định cho 31 bệnh nhân cho hiệu quả mọc tóc rõ rệt (20/31 đối tương). Peptide đường uống từ đậu nành có tên soymetide-4 có tác dụng chống rụng tóc do hóa chất gây chết tế bào trong điều trị ung thư. Tác dụng mọc tóc của peptid đậu nành phụ thuộc liều Các chiết xuất dẫn chất 5-alpha-reductase inhibitor Finasteride là hoạt chất ức chế 5-alpha reductase (5-AR) hiệu quả nhất hiện nay. Tuy nhiên, các tác dụng phụ của hoạt chất này đã thúc đẩy các nhà khoa học tìm đến các dẫn chất thay thế có nguồn gốc thực vật. Chiết xuất từ cây cọ lùn (Saw Palmetto) được đề xuất là thay thế ưu tiên cho finasteride trong điều trị các bệnh lý về đường tiết niệu và phì đại tuyến tiền liệt. Các hoạt chất như liposterolic và β-sitosterol có khả năng ức chế 5-AR. Trà xanh cũng có tác dụng ức chế 5-AR (tác dụng được kiểm chứng vào năm 1995), cũng được đề nghị trong các liệu trình điều trị rụng tóc. Hoạt tính ức chế gia tăng khi gallate ester trong EGCG được thay thế bởi các acid béo chuỗi dài như acid lauric, acid myristic, acid palmitic, acid stearic. Chiết xuất từ cây khổ sâm cũng có tác dụng ức chế 5-AR, được sử dụng rộng rãi tại Trung Quốc đề điều trị ung thư và kháng viêm. Khi hoạt chất được thoa lên vùng da lưng của chuột, chu trình anagen được bắt đầu sớm hơn nhưng không có ảnh hưởng đến những tế bào lớp nhú. Nếu các yếu tố tăng trưởng như insulin-like growth factor và yếu tố tăng trưởng biều bì được bổ sung vào môi trường nuôi cấy, hoạt tính ức chế 5-AR của dịch chiết được gia tăng.