Chất khử mùi Tháng Một 8, 2018RD Phần này đưa ra các nhìn tổng quan những kiến thức cơ bản về nguồn gốc của mùi và mặt sinh học của vi khuẩn vùng dưới cánh tay cùng với sự tương tác của mùi với các tác nhân khử mùi. Nội dung phần này được sắp xếp theo trình tự đặc biệt giúp dễ dàng hiểu rõ sự phát triển của sản phẩm khử mùi. Sinh học của vi khuẩn có lợi vùng nách Các vi khuẩn cư trú ở vùng da dưới cánh tay con người bao gồm 106/cm2 tổ chức sinh vật như cầu khuẩn hiếu khí, các vi khuẩn dạng bạch hầu thân dầu và các loài vi khuẩn gram âm khác. Tại vùng nách, tồn tại hai họ vi khuẩn là họ corynebacterium và họ micrococcaceae (Staphylococcus epidermidis). Quần thể corynebacterium hoặc S. epidermidis là đặc trưng ở người. Các vi khuẩn cư trú là một quần thể khá ổn định, không khác nhau nhiều giữa vùng nách hai bên. Các vi sinh vật thích nghi hoàn toàn với điều kiện sinh thái có giá trị pH và độ ẩm cao hơn so với các vùng da khác. Lông vùng nách, theo các tài liệu không phải là môi trường dinh dưỡng tốt cho sự phát triển của vi khuẩn, các vi khuẩn thích cư trú trên vùng da dưới cánh tay hơn. Độ ẩm là yếu tố cần thiết cho sự tăng sinh của vi khuẩn và được bài tiết đặc biệt là từ các tuyến mồ hôi nội tiết. Nguyên nhân của nồng độ mùi ở vùng nách có liên quan tới ưu thế về số lượng của vi khuẩn họ corynebacterium. Các thành phần của dịch tiểt từ tuyến apocrine, ví dụ như acid isovaleric và androstenone là nguyên nhân gây mùi vùng nách. Các exoenzyme thủy phân của vi khuẩn trên da tách những liên kết este của tiền chất androstenol tan trong nước không mùi thành các steroid dễ bay hơi tương ứng. Một số nghiên cứu khác cho rằng các chất gây mùi chính là các axit béo không bão hòa C6-Cn, phân nhánh, mạch thẳng. (E)-3-methyl-2-hexenoic acid (E-3M2H) là acid béo gây ra mùi vùng nách nhiều nhất so với các axit béo C6-Cn khác. Dịch tiết mồ hôi từ tuyến mồ hôi đầu hủy (apocrine – tuyến sau khi chế tiết thì mất đi phần đầu của tuyến) được phân tích và phát hiện nồng độ androstenone 0,5ng /^1 và nồng độ E-3M2H 357 ng/iL. Các phân tử mùi dễ bay hơi E-3M2H tìm thấy trong dịch tiết mồ hôi được chuyển thành chất không bay hơi trên bề mặt da. Hai protein gắn phân tử mùi (ASOB và ASOB2) đã được xác định mang theo phân tử 3M2H đến bề mặt da. Vi khuẩn họ corynebacterium giải phóng các phân tử mùi từ tiền chất protein hoặc tư phức hợp mùi. Lưu ý rằng không phải tất cả chúng ta đều có thể ngửi thấy mùi của các hợp chất hóa học. Có sự khác nhau giữa từng người trong việc nhận ra mùi của hai đồng phân của 3M2H và steroid androstenone. Khoảng 50% dân số trưởng thành không thể ngửi thấy androstenone do chứng mất khứu giác androstenone hoặc 3M2H đã được xác định về mặt di truyền. Chất khử mùi Chất khử mùi là sản phẩm dùng tại chỗ được thiết kế để làm giảm mùi hôi dưới cánh tay. Chúng được xem như một dạng mỹ phẩm tại Hoa Kỳ, trong khi chất chống tiết mồ hôi được sử dụng trong điều trị bởi FDA như là một dạng thuốc. Chất khử mùi có xu hướng ít gây kích ứng hơn chất chống tiết mồ hôi. Ở châu Âu, người tiêu dùng thích sử dụng chất khử mùi hơn nhưng tại Hoa Kỳ lại xu hướng ngược lại. Các khái niệm về kiểm soát mùi vùng nách Những hiểu biết hiện nay về mặt sinh học của vi khuẩn có lợi vùng nách và nguồn gốc của mùi hôi vùng nách là cơ sở để phát triển các mục tiêu chống lại sự hình thành mùi. Nhiều sự sáng chế và các tài liệu cho thấy sự kết hợp của các hợp chất hóa học khác nhau giúp tạo ra đặc tính khử mùi hiệu quả. Mục tiêu giảm mùi hôi vùng nách bao gồm: Chất khử mùi chứa chất chống tiết mồ hôi Chất khử mùi trung tính Chất loại bỏ mùi Các chất ức chế esterase Chất khử mùi chứa hoạt chất kháng khuẩn Chất khử mùi chứa chất chống tiết mồ hôi Các hoạt chất chống tiết mồ hôi như nhôm chlorohydrate hoặc các phức Al-Zr làm giảm sự bài tiết mồ hôi từ tuyến mồ hôi toàn vẹn (eccrine – tuyến sau khi tiết ra thì cấu tạo tuyến vẫn còn nguyên vẹn). Đặc tính kháng khuẩn tuyệt vời của chúng giúp chống lại S. epidermidis và vi khuẩn họ corynebacterium. Tính acid của muối nhôm có thể là yếu tố chính ức chế sự phát triển của vi khuẩn. Chất khử mùi che dấu mùi Các thành phần tạo mùi (hương liệu) đã được sử dụng để che dấu mùi hôi từ thời cổ đại. Thông thường có thể kết hợp 0,2-1,5% chất tạo hương trong sản phẩm khử mùi. Chúng được thiết kế để hỗn hòa với mùi vùng nách và do đó chúng hoạt động như một chất che dấu mùi. Việc phân biệt mùi giữa các cá nhân có sự khác nhau đáng kể do có sự tương tác khác nhau với da, thói quen tẩy rửa và mùi đặc trưng riêng ở vùng nách. Các nguyên liệu tạo hương thơm có thể được kết hợp để đạt được “ hương đầu”, “hương giữa”, “hương cuối”. Đầu tiên là hương làm mới xuất hiện ngay sau khi sử dụng, trong khi hương cuối là thành phần thuộc về khứu giác sẽ được lưu giữ lại ở vùng dưới cánh tay. Chất tạo hương với các đặc tính kháng khuẩn đã được mô tả trong một số sáng chế và trong các tài liệu. Bên cạnh đó, đặc biệt ở các sản phẩm dạng nhũ tương, chất tạo hương có thể hoạt động như một chất bảo quản. Tỉ lệ gia tăng của các dị ứng tiếp xúc chống lại các thành phần tạo hương cần được xem xét đến để có thể dùng ứng dụng này loại bỏ mùi vùng dưới cánh tay. Chất khử mùi trung tính Các axit béo C6-Cn có mùi góp phần gây ra mùi vùng nách. Trung hòa các chất hóa học bằng sodium bicarbonate (NaHCO3) tạo ra các loại xà phòng không mùi tương ứng. Tuy nhiên, nó không ổn định trong thời gian dài đối với các thành phần dạng lỏng. Việc bào chế ra các dạng chất khử mùi và sử dụng NaHCO3, có mặt chất chống tiết mồ hôi đã được ghi nhận. Chất khử mùi có chứa kẽm carbonate cũng là một thành phần trong công thức bào chế. Chất loại bỏ mùi Kẽm Ricinoleate Muối kẽm của acid ricinoleic không có tác dụng kiềm khuẩn và chống tiết mồ hôi. Chúng liên kết mạnh với các acid béo có mùi, các acid amin và các mercaptan. Phản ứng trao đổi ligand (các phân tử gắn vào các vị trí thụ thể đặc biệt trên các tế bào) giữa các acid ricinoleic và các phân tử mùi tạo ra đặc tính loại bỏ mùi của kẽm ricinoleate. Sự tương tác với các thành phần tạo hương trong công thức của chất khử mùi có thể làm giảm hiệu quả loại bỏ mùi mong muốn sau khi sử dụng tại chỗ ở vùng dưới cánh tay. Các oxit kim loại Các oxit của canxi, magie, kẽm hình thành khi có sự hiện diện của các acid béo cùng với các xà phòng kim loại tương ứng. Các hạt nhỏ kẽm oxid liên kết lại với nhau tạo thành một khối lớn. Sự hình thành này dẫn đến sự bít tắt các sản phẩm dạng xịt. Bột hydrid được phát triển dựa trên sự bao phủ của các oxit kim loại lên bề mặt của bột nylon hình cầu. Ưu điểm của công nghệ này là vùng bề mặt của kẽm oxit được tăng lên do đó nâng cao hiệu quả loại bỏ mùi và giảm kết tập hạt trong các sản phẩm dạng xịt. Chất ức chế esterase Kẽm glycinate Việc ức chế các exoenzym của vi khuẩn vùng nách sẽ giúp giảm thiểu mùi hôi vùng này. Kẽm glycinate được đánh giá là một hoạt chất hiệu quả. Các test kháng sinh cho thấy không có hiệu quả ức chế chống lại S.epidermidis hay chống lại các vi khuẩn diphtheroid, điều này thúc đẩy đề xuất cho các cơ chế ức chế các exoenzyme của vi khuẩn. Triethylcitrate Giá trị pH tối ưu cho sự phát triển của mùi vùng nách do vi khuẩn họ corynebacterium xấp xỉ pH 6 trong dịch tiết ở nách. Chuyển pH bề mặt da sang vùng acid sẽ làm giảm hoạt động của các esterase của da dẫn tới giảm dịch tiết vùng nách. Triethylcitrate được đề xuất sử dụng để hình thành acid citric thông qua tiến trình enzym ở vùng nách. Năm 1991, nhận thấy hoạt chất này không có hiệu quả làm giảm pH sau khi sử dụng. Tuy nhiên, các sản phẩm khử mùi trên thị trường vẫn còn chứa chất này. Chất khử mùi chứa hoạt chất kháng khuẩn Ứng dụng này đang là mục tiêu chung để ngăn mùi vùng nách. Ethanol có lẽ là một trong các hoạt chất hiệu quả tốt nhất được dùng cho để khử mùi. Hiệu quả bổ sung thường được yêu cầu là thời gian khử mùi dài, việc này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng thêm mùi hương, chất chống tiết mồ hôi hoặc các chất có tính kháng khuẩn (famesol, phenoxyethanol,…). Triclosan (2,4,40-Trichloro-20-Hydroxydiphenylether) Chất này có hoạt tính kháng khuẩn phổ rộng chống lại các vi khuẩn gram âm, gram dương, nấm mốc và nấm men. Sự hiện diện của triclosan trong các thanh chống tiết mồ hôi và chai lăn giúp giảm số lượng lớn vi khuẩn so với các công thức chống tiết mồ hôi không có thành phần triclosan. Triclosan được dùng trong các sản phẩm chăm sóc da, sát khuẩn tay và các sản phẩm gia dụng. Acid Ester Glyceryl Fatty Các ester acid béo mono và olioglyceryl như glyceryl monocaprylate, monocaprinate, monolaurate và diglyceryl monocaprinate là các chất khử mùi hiệu quả . Sự kết hợp của glyceryl monolaurate với farnesol và phenoxyethanol cho thấy tác dụng hiệp đồng hiệu quả chống lại vi khuẩn họ corynebacterium. Ưu điểm của việc kết hợp thành phần này với các hoạt chất khử mùi thế hệ đầu tiên như triclosan cho thuộc tính sinh học cao và hoạt tính chọn lọc vi khuẩn của chúng. Những hoạt chất này đều tồn tại tự nhiên trong thực vật và các loài động vật. Bên cạnh đó, người ta đã chứng minh rằng sự kết hợp của ester acid béo mono và olioglyceryl với một loạt các chất kháng sinh tự nhiên (ví dụ, axit sáp lông cừu) cho thấy hiệu quả kháng khuẩn hiệp đồng chống lại vi khuẩn vùng nách và được xem như một hoạt chất khử mùi hiệu quả cao. Các sản phẩm chứa hoạt chất này đã được đưa ra thị trường thành công trong nhiều năm. Acid Ester Sucrose Fatty Các este acid béo của sucrose được biết đến như là chất tạo nhũ trong các sản phẩm thực phẩm. Sucrose có thể thay thế 8 nhóm hydroxyl bằng các axit béo. Tiềm lực kháng khuẩn phụ thuộc nhiều vào mức độ thay thế của sucrose. Monostearate sucrose và monolaurate sucrose được xem như một chất khử mùi trong các tài liệu và công thức bào chế. Glycerolether 2-Ethylhexyl glycerolether (octoxyglycerol) là một chất lỏng trong suốt, hòa tan tốt trong các loại dầu mỹ phẩm, các polyol và ancol nhưng tan ít trong nước (0,2%). Hoạt tính kháng khuẩn hiệp đồng với các thành phần khác đã được ghi nhận. Hoạt chất này trở nên phổ biến gần đây trong các công thức khử mùi ở Châu Âu. Các khái niệm mới trong việc kiểm soát mùi vùng nách Các hoạt động nghiên cứu thường tập trung vào sự am hiểu về tính tương tác giữa da vùng nách với vi khuẩn trên da và vi khuẩn trên da với sự hình thành mùi, cùng với việc tìm ra các hoạt chất có tính chọn lọc cao, ngày nay cho phép nhiều thiết kế đặc biệt cho các sản phẩm khử mùi. Cái khái niệm mới trong việc kiểm soát mùi vùng nách bao gồm: Chitosan Các chất ức chế enzyme vi khuẩn Các tiền chất tương tự ức chế mùi Sự biến đổi mùi hương trên da và mùi sản phẩm Các chất chống dính Chitosan Chitin là một polysaccharide tồn tại trong tự nhiên (ví dụ như trong các loài côn trùng, tôm hùm, cua hoặc nấm) chứa các đơn vị N-acetyl-D glucosamine. Deacetylation của nhóm amin giúp chitosan tan ít trong nước. Các đặc tính khử mùi của chitosan và sự kết hợp của hoạt chất này với các muối nhôm là đề tài cho công thức bào chế. Chất ức chế enzym vi khuẩn Theo một công thức bào chế vào năm 1990, enzym amino acid (3-lyase) là một chất xúc tác cho sự hình thành mùi vùng nách. Enzyme này nằm trong các tế bào vi khuẩn tạo mùi và phân giải tiền chất apocrine của dịch tiết mồ hôi như các amino acid với các đơn vị cấu trúc COOH-CH- (NH2) -CH2-S-R thành các sản phẩm lưu huỳnh có mùi tương ứng. Một số chất ức chế enzym như các dẫn xuất của hydroxylamine, các amino acid bậc 3, cycloserine và pyridoxal đã được định danh. Các tiền chất tương tự ức chế mùi Một phương pháp khác để ức chế enzym 3-lyase là sử dụng chất nền thay thế cho vi khuẩn giúp phân giải cấu trúc CH (NH2) CH2-O-C (O) –R thay cho trình tự các amino acid chứa lưu huỳnh. Phương pháp này đem đến các thành phần không có mùi tương ứng như benzoic acid hay làm giảm các chất sinh mùi như acid phenylacetic. Sự biến đổi mùi hương trên da và mùi sản phẩm Sự tương tác vật lý và hóa học của mùi hương với vùng da dưới cánh tay là một vấn đề phức tạp. Các hoạt động nghiên cứu ở vùng này tập trung vào câu hỏi các thành phần nào của mùi hương giữ lại và nằm trên da sau khi sử dụng tại chỗ. Phân tích hóa hơi là một trong những kỹ thuật thu được nhiều thông tin liên quan đến sự tương tác của da và mùi hương. Người ta đã chứng minh rằng thời gian lưu giữ mùi hương có thể đạt được bằng cách sử dụng các tiền chất (ester, acetate) của các thành phần chất tạo hương. Các ester hoặc acetate của thành phần tạo hương thủy phân được trên da người do có giá trị pH yếu. Các sản phẩm thủy phân (acid, ancol và aldehyd) đem đến một mùi hương dễ chịu cho vùng da dưới cánh tay. Sự biến đổi mùi hương trên da và mùi của sản phẩm phù hợp cho các công thức alkaline như các thanh khử mùi từ xà phòng. Ưu điểm của phương pháp sử dụng tiền chất giúp tạo ra thuộ tính lưu giữ mùi hương kéo dài của chất khử mùi sau khi sử dụng tại chỗ. Chất chống dính Một khái niệm thay thế để làm giảm số lượng của vi khuẩn tại vùng da dưới cánh tay là phương pháp chống bám dính. Những hiểu biết về cơ chế bám dính của vi khuẩn thường trú vùng nách trên bề mặt da là cơ sở để phát triển các mục tiêu chống lại sự bám dính của vi khuẩn. Số lượng lớn vi sinh vật trên da ưu tiên dính chặt vào các vị trí đặc biệt trên bề mặt cơ thể. Ví dụ Staphylococcus aureus và Pseudomonas aeruginosa bám chặt vào các tế bào biểu mô mũi. Corynebacterium xerosis kết dính với các tế bào biểu bì trong khi các loài nấm men như Candida albicans kết dính với các tế bào sừng. Cấu trúc của da có liên quan đặc biệt đến sự kết dính của các vi khuẩn, được biết đến là các protein, cấu trúc oligosaccharide, các lipid và các bề mặt kỵ nước. Sự mô phỏng hình dạng của các saccharide, oligosaccharide, polysaccharide và các glycoprotein cho phép ức chế sự bám dính của vi khuẩn lên da. Ngoài ra, gần đây người ta biết đến các este sucrose như sucrose myristate và sucrose laurate có đặc tính chống dính nhiều vi sinh vật khác nhau bao gồm các vi sinh vật điển hình ở vùng nách. CÁC HỆ THỐNG PHÂN PHỐI THUỐC VÀ CÁC DẠNG DÙNG CỦA CHẤT KHỬ MÙI Các sản phẩm được thiết kế để làm giảm mùi hôi dưới cánh tay có thể được xây dựng dựa trên một loạt các hệ thống phân phối như huyền phù, nước hoặc các dung dịch hydroalcoholic và nhũ tương. Các sản phẩm tại chỗ chủ yếu là dạng thanh, dạng lăn, kem, phun xịt, sol khí và gel. Việc giảm lượng hoạt chất chống tiết mồ hôi như nhôm chlorohydrate trong chất chống tiết mồ hôi là cách thức để tạo ra chất khử mùi. Trong trường hợp này, các hoạt chất chống tiết mồ hôi có hoạt tính khử mùi và hầu như không có tác động trên các tuyến mồ hôi eccrine. Chất khử mùi có thể được hình thành trong môi trường axit, trung tính, hoặc kiềm. Để thiết kế một chất khử mùi cần lưu ý những điểm sau đây: Thời gian khử mùi kéo dài Không gây kích ứng Tan tốt trong hệ thống phân phối Lựa chọn mùi hương ổn định Kiểm soát độ nhớt của sản phẩm Sản phẩm không gây khó chịu cho da Quy trình đánh giá in vitro và in vivo của chất khử mùi đã được thiết kế. Phương pháp mới để đánh giá in vivo của các tác nhân kháng vi sinh vật được phát triển gần đây, các vi khuẩn vùng nách được đưa lên cánh tay cho phép đánh giá đồng thời nhiều chất khử mùi trên từng cá nhân. Khử mùi dạng thanh Các thanh khử mùi được làm cứng bằng 6-8% natri stearat. Các tác nhân khử mùi và chất tạo hương được hòa tan trong chất mang thân nước. Hai loại thanh cần được phân biệt là thanh tạo thành từ ethanol và từ propylene glycol. Độ trong suốt thường đạt được bằng cách sử dụng lượng lớn polyol. Các tác nhân giúp thanh trong như ete PPG-14 butyl, Cocamit DEA, Lauramide DEA, Steareth-100 đã được đưa vào bào chế. Thanh tạo thành từ ethanol được ưa thích, đây là mục đích của nhà bào chế nhằm tạo ra một cảm giác mát lạnh tại chỗ cho người tiêu dùng. Sự hao hụt của thanh được xem xét đến do sự bay hơi của ancol. Thanh tạo thành từ propylene glycol có khuynh hướng ít bị hao hụt hơn và hòa tan chất tạo hương dễ dàng hơn (bảng 1). Bảng 1. Khử mùi dạng sol khí Các sản phẩm dạng xịt có chứa dung dịch hoạt chất kháng khuẩn trong chất mang là ethanol hoặc propylene glycol hay cả hai, kết hợp với chất đẩy hóa lỏng điển hình cho các dạng sol khí khử mùi. Điểm khác biệt của chất chống tiết mồ hôi chứa sol khí là chất khử mùi được hòa tan trong công thức từ polyol hoặc ancol và không bị huyền phù. Dạng xịt khử mùi thường gây khô da vì là công thức dạng khan nước. Thông thường, 20-60% thành phần phun ra của sol khí được đưa lên da do phản lực đẩy của các hydrocarbon hóa lỏng. Propan, butan và isobutan là các chất đẩy được dùng phổ biến. Chúng ngưng tụ để tạo thành một chất lỏng trong suốt, không màu, không mùi với nồng độ 0,51-0,58g/ml ở 200C. Những chất đẩy này cháy khi có sự hiện diện của không khí hoặc oxy. Nhãn của các dạng sol khí có liên quan đến nguy cơ dễ cháy của các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi và việc làm dụng dung môi cũng được thảo luận chi tiết trong các đánh giá được xuất bản gần đây. Thùng chứa sol khí có thể được chế tạo từ thép mạ thiếc, thép mạ crom, nhôm. Nhiều loại bình phun có thể gây ra sự ăn mòn. Công thức cho sol khí phải tối ưu hóa các thông số sau để có được sản phẩm khử mùi khô thoáng: Tỷ lệ phun Hình dạng phun Kích thước hạt, tỷ lệ đẩy/ tỷ lệ tập trung của hạt Nồng độ chất khử mùi/ nồng độ mùi hương Áp suất bình phun Khử mùi dạng bơm phun mù Bơm phun mù Hydroalcoholic Một thay thế khác cho sol khí là dạng bơm phun mù. Loại này khá phổ biến ở Châu Âu, trong khi lại ít được người tiêu dùng Hoa Kì quan tâm bởi vì họ có xu hướng thích dạng khử mùi khô thoáng hơn. Bơm phun mù cho phép một liều lượng vừa phải của công thức phân phối đến vùng da dưới cánh tay theo một cách hợp vệ sinh. Chúng chứa các dung dịch hydroalcoholic có độ nhớt thấp và chất tạo hương. Thông thường các chất hòa tan như dầu thầu dầu hydro hóa PEG-40 được kết hợp để đưa vào công thức giúp duy trì một dung dịch trong suốt và đồng nhất (bảng 2). Bảng 2. Bơm phun mù nhũ tương PIT Nhược điểm của các dạng phun xịt hydroalcoholic là thành phần ancol trong công thức có thể gây ra các phản ứng phụ không mong muốn đặc biệt ở vùng nách cạo. Beiersdorf AG ở Hamburg, Đức đã giới thiệu đến thị trường Châu Âu nhãn hàng Nivea – một dạng bơm phun mù mới dựa trên cơ sở nhũ tương vào năm 1995. Các chất khử mùi với độ nhớt thấp có thể phun được dựa vào công nghệ nhiệt chuyển pha (PIT). Hỗn hợp thích hợp của các chất diện hoạt ethoxyl hóa, dầu và nước có mặt các hoạt chất chống tiết mồ hôi và hoạt chất khử mùi được đun nóng đến 60-900C. Làm lạnh nhũ tương nước trong dầu (W/O) ở nhiệt độ phòng thông qua tiến trình PIT thành nhũ tương dầu trong nước (O/W) màu trắng xanh mịn phân tán tốt. Sự phân bố kích thước giọt của các nhũ tương PIT trong vùng từ 80-250nm. Bơm phun mù đề cập trên đây có chứa chất khử mùi thân thiện với làn da kết hợp với glyceryl monocaprylate và các axit sáp cừu trong hệ thống phân phối không chứa ancol (bảng 3). Bảng 3. Bơm phun vi nhũ tương Dạng bơm phun mù hydroalcoholic thường trong suốt, trong khi nhũ tương PIT xịt là những sản phẩm màu trắng hoặc trắng xanh. Dạng xịt không cồn và các dạng xịt trong suốt truyền thống gần đây đã được giới thiệu vào thị trường Châu Âu (ví dụ như Basic pH, Beierdorf AG, Hamburg, Đức). Tính trong suốt của nhũ tương đạt được khi kích thước các giọt nhỏ dưới 100nm. Vi nhũ tương dầu trong nước (O/W) có thể được hình thành từ công nghệ PIT hoặc không cần PIT nhưng cần lựa chọn cẩn thận các thành phần và tinh chỉnh nhiều. Ưu điểm chính so với các vi nhũ tương cổ điển là nồng độ chất diện hoạt thấp (10%). Hơn nữa, điều này có thể chứng minh rằng khi có sự hiện diện của các polyme tan được trong nước làm thay đổi tính kỵ nước, đồng thời các công nghệ được đề cập trước đó cho phép hình thành các dạng gel, gel xịt, dạng lăn, dạng thanh và các sản phẩm sol khí. Xu hướng trong tương tai Thị trường chất khử mùi đã trải qua nhiều thay đổi đáng kể liên quan đến các nguyên lý để giảm mùi vùng nách trong những năm qua. Dự kiến việc tìm kiếm ra các hoạt chất có hiệu quả, thân thiện với làn da có tính chọn lọc cao để loại bỏ các vi sinh sinh vật vùng nách sẽ đem đến các sản phẩm khử mùi an toàn và hiệu quả. Việc cung cấp những hiểu biết về cách thức bám dính của các vi sinh vật trên da sẽ dễ dàng hơn cho việc phát triển các mục tiêu mới giúp giảm mùi vùng nách. Sự cải tiến của các dạng xịt (không có hoặc chỉ có tác động thấp đến môi trường) hoặc các sản phẩm thay thế sol khí (nhũ tương xịt) sẽ có trong danh mục của các công ty kinh doanh chất khử mùi trong một vài năm tới.