Các chất dưỡng ẩm (Phần 2)

 

CÁC CHẤT HÚT ẨM

Các chất hút ẩm là các chất hòa tan được trong nước với khả năng hấp thu nước cao. Chúng có khả năng hút nước từ không khí (nếu độ ẩm không khí cao hơn 80%) và từ lớp biểu bì nằm dưới. Mặc dù các chất hút ẩm có thể lấy nước từ môi trường để giúp hydrat hóa làn da nhưng ở những tình trạng độ ẩm thấp, chúng có thể lấy nước từ lớp biểu bì bên dưới và lớp trung bì dẫn đến làm gia tăng độ khô của da. Vì lý do này nên chúng hoạt động tốt hơn khi được kết hợp với các chất khóa ẩm. Các chất hút ẩm cũng là các chất phụ phổ biến cho các chất dưỡng ẩm bởi vì chúng ngăn chặn sự bốc hơi sản phẩm và độ dày của sản phẩm, do đó kéo dài thời gian sử dụng của các loại chất dưỡng ẩm khác nhau. Một số chất hút ẩm cũng có hoạt tính kìm khuẩn. Các chất hút ẩm kéo nước vào da, gây ra xưng nhẹ lớp sừng tạo cảm giác làn da mượt mà hơn với các nếp nhăn ít hơn. Kết quả là nhiều chất dưỡng ẩm được quảng cáo là “kem chống nhăn” mặc dù thậm chí chúng không đem lại hiệu quả chống nhăn lâu dài. Các ví dụ về các chất hút ẩm được sử dụng phổ biến gồm có glycerin, sorbitol, sodium hyaluronate, ure, propylene glycol, các acid alpha hydroxy và đường.

Glycerin

Glycerin (glycerol) là một chất hút ẩm mạnh, cho phép lớp sừng giữ lại một lượng nước cao thậm chí ở môi trường khô. Những nghiên cứu gần đây của Choi và cộng sự đã cho thấy rằng glycerol đóng một vai trò quan trọng trong sự hydrat hóa da bởi vì lượng glycerol có tương quan với mức độ hydrat hóa của lớp sừng. Appa và cộng sự đã so sánh hai chất dưỡng ẩm có lượng glycerin cao với 16 chất dưỡng ẩm phổ biến khác trên 394 bệnh nhân bị khô da nghiêm trọng. Các sản phẩm có lượng glycerin cao vượt trội so với các sản phẩm khác được thử nghiệm qua giai đoạn 5 năm bởi vì chúng phục hồi nhanh chóng làn da khô trở về tình trạng hydrat hóa bình thường. Chúng cũng giúp ngăn chặn tình trạng khô tái lại trong khoảng thời gian dài hơn so với các công thức khác, thậm chí những công thức có chứa petrolatum. Phân tích siêu cấu trúc của da được điều trị với các công thức có lượng glycerin cao cho thấy rằng glycerin làm cho lớp sừng mở rộng do độ dày của các tế bào sừng gia tăng và do khoảng không giữa các lớp của các tế bào sừng mở rộng. Những phát hiện này cho thấy rằng glycerin tạo ra nơi có khả năng lưu giữ độ ẩm, giúp chống lại tình trạng khô da như đã thấy trong nghiên cứu của Appa. Glycerin cũng thực hiện các chức năng bằng cách ổn định và làm lỏng các màng tế bào và hydrat hóa các enzym cần cho sự thoái hóa thể liên kết. Glycerol có thể được vận chuyển từ tuần hoàn vào lớp biểu bì thông qua các kênh aquaporin. Các nghiên cứu gần đây đã cho thấy rằng độ hydrat hóa bình thường của lớp sừng đòi hỏi phải có các glycerol nội sinh. Hai mô hình chuột thuần không tương quan đã chứng minh tầm quan trọng của glycerol nội sinh đối với độ hydrat hóa bình thường của lớp sừng. Những con chuột chết do thiếu kênh nước aquaporin-3 (AQP-3) không thể vận chuyển glycerol từ tuần hoàn vào lớp biểu bì và chúng biểu lộ sự hydrat hóa bất thường của lớp sừng và lượng glycerol lớp sừng giảm. Khiếm khuyết này ở chuột được điều chỉnh khi glycerol sử dụng tại chỗ.

Ure

Ure là một thành phần của NMF. Nó đã được sử dụng trong các kem bôi tay từ những năm 1940. Ngoài là một chất hút ẩm, ure còn có hiệu quả trị ngứa nhẹ. Mặc dù có một số bất đồng trong các tài liệu nhưng một vài nghiên cứu chứng minh rằng sự kết hợp giữa ure với hydrocortison, acid retinoic và các chất khác làm gia tăng hấp thu các chất này. Trong một thí nghiệm mù đôi, ure dạng kem 3% và 10% đã được chứng minh là hiệu quả ở da khô. Điều thú vị là TEWL không bị thay đổi sau khi điều trị với kem ure 3%, trong khi kem 10% gây giảm TEWL mặc dù những kem này được báo cáo có hiệu quả lâm sàng như nhau.

Các acid hydroxy

Các acid alpha hydroxy (AHA) là một nhóm của các acid hữu cơ trong tự nhiên có chức năng là các chất hút ẩm, chúng cũng có các đặc tính tẩy da chết. Các acid glycolic và lactic có nguồn gốc từ mía đường và sữa chua, là các AHA được sử dụng phổ biến nhất trong các sản phẩm dưỡng ẩm và là những chất đầu tiên tiếp cận thị trường. Các AHA khác gồm có acid malic có nguồn gốc từ táo, acid citric có nguồn gốc từ các acid trái cây và acid tartaric có nguồn gốc từ quả nho. Các công thức tại chỗ có chứa các AHA đã được biết đến là gây ra ảnh hưởng đáng kể trên sự hình thành keratin biểu bì. Acid salicylic, một chất tẩy tế bào chết hóa học và acid beta hydroxy (BHA) có nguồn gốc từ vỏ cây liễu, lá lộc đề xanh và bạch dương, nhưng cũng có hiệu lực ở dạng tổng hợp.

Propylen glycol

Propylen glycol (PG) là một chất lỏng không mùi có chức năng vừa là chất hút ẩm vừa là chất khóa ẩm. Nó có các đặc tính kháng khuẩn và tiêu sừng. PG đã được cho thấy là tăng cường khả năng thâm nhập của các thuốc như minoxidil và các steroid. Mặc dù PG được biết là một chất nhạy cảm yếu nhưng nó có thể gây viêm da tiếp xúc bằng cách tăng cường sự thâm nhập các chất gây dị ứng khác.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *